Mẹ và bom nơ-tơ-rôn

09:05 08/03/2011
L.T.S: “Mẹ và bom nơ-tơ-rôn” là trường ca của nhà thơ Liên Xô nổi tiếng E.Ép-tu-sen-cô. Trường ca được trao giải thưởng Nhà nước Liên Xô năm 1984. Xin trân trọng giới thiệu một đoạn trích từ trường ca.

Thi hào Evgenij Evtusenko - Ảnh: azioneriformista.it


E.ÉP-TU-SEN-CÔ


Mẹ và bom nơ-tơ-rôn


Mẹ ơi,
con đọc báo hôm nay
qua thân thể trong veo
            Những đứa trẻ đói thành phố Lê-nin-grát
các em đã đến với Giáng sinh
            các em bé của loài người đã chết,
Nghĩa trang Pit-xoa-rôp-xcôi-ê
            những bàn tay trẻ héo
với lên những chiếc đèn vàng
            những quả quít trên cây Nô-en
mà không tìm được quả
            như thường khi các em vẫn hái.
Những nếp nhăn khuôn mặt nhỏ xanh xao,
            những em bé Au-sơ-vich bị hơi ga ngạt thở van vỉ ông già Nô-en
Gỡ cho em một quả cầu bạc
bất cứ quả nào
            miễn còn chứa một chút dưỡng khí
Những em bé Sơn Mỹ trong thai
            bị xé ra từ bụng mẹ
            cố bò đến gần
Con sói già hung ác đang nức nở.
Không quên chiếc - khăn - quàng - đỏ, con Sói bận dán lại
Những mảnh trẻ con nhuộm máu ở Ben-phát, Bây-rút bị xé nát trong bom
Và những em bé Xan-va-đo bị nghiến nát dưới xích xe tăng đàn áp
chúng phải lùi lại, kinh hồn trước cái nhìn của chính trẻ con
Vô tận là điệu múa tròn những em đã khuất toàn thế giới quây quần giữa mùa Giáng sinh
Nhưng bom Nơ-tơ-rôn thì còn lại,
Nếu bom nổ vào Giáng sinh
            chẳng bao giờ còn trẻ con nữa cả;
những nhà trẻ chỉ còn bọn gấu bông gào thét
chúng xé ngực với móng nhựa và mạt cưa tràn ra -
những con voi thùng thình ré lên báo động
            nhưng quá muộn..

Cám ơn vườn Đi-xnây (1) nơi người ta chẳng còn phàn nàn đổ gãy
Cám ơn những búp bê chẳng còn sợ mất bím tóc
Cám ơn những tấm kính mà quả bóng càn quấy chẳng thể đập tan
Cám ơn những ngựa gỗ luôn luôn sẵn yên cương
Kêu cót két trong bao la trống rỗng
Cám ơn những quần đùi phơi kỹ trên giây
Và lùm cây nơi người ta trốn tìm
            chẳng bao giờ bị xẻ…
Trò chơi lớn cuối cùng
Chẳng còn trẻ con. Chẳng còn người lớn. Chẳng còn ai
Đường phố vẹn nguyên lăn lóc những chiếc đồng hồ nguyên vẹn
với dây da hay thép I-nốc
mang dáng những cổ tay biến mất,
lăn lóc những chiếc nhẫn cưới đã đánh mất giá trị đường tròn,
những chiếc khuyên ngọc thạch và bao trang sức tuyệt vời
            nơi những đôi tai đàn bà đã tan biến hư vô;
Và những chiếc găng tay rỗng còn nguyên
            xiết chặt chiếc vô-lăng còn nguyên
            trên chiếc xe chưa hề vết xước
Mẹ ơi, mẹ chẳng bao giờ còn nữa.
Chỉ còn lại quán báo của mẹ
nơi ngọn gió nguyên tử lật từng trang
            tuần báo “Bóng đá - Khúc côn cầu”
            tạp chí “Châu Mỹ và “Sức khỏe bạn”.
            nhuốm mốc (không bán được)…
Mẹ ít nói chính trị
Chỉ cái lần mẹ bước vào hiệu tạp hóa đại lộ Ê-toan
với chiếc cúc áo bật ra trong đám chen lấn
(ngày hôm đó giấy sơn Tây Đức đưa ra bán lẽ)
Mẹ nói: “Thưa ngài;
Chắc người ta phải hám đồ vật lắm
nên mới chế ra bom Nơ-tơ-rôn”
Và tôi đã tưởng tượng đến hàng triệu cửa hàng trên thế giới
ăm ắp giấy sơn, lông thú, kim cương,
bốt da dê Ý, máy Nhật
và những hộp bia mang nhãn Đan Mạch
những cửa hàng đủ mọi thứ hàng, trừ khách hàng thì biến mất.
Trong các bảo tàng
            những cái gối đánh cắp các sọ người Nê-ăng-đéc-tan
Những vải bọc tự cuốn đi khỏi tượng và cốt thép
Những xe nôi chỉ còn ru những xác trẻ con trong phoóc-môn trường thuốc
Cô đơn, bọn dao cạo tự rạch cổ mình
Lũ cà-vạt treo cổ tập thể lên cây
Sách vỡ tự thiêu vì không chịu nổi sự vắng bóng ngón tay và ánh mắt
Chắc chắn đồ vật rồi cũng sẽ thích ứng
Đến lượt chúng
            chúng cũng sẽ dựng lấy cửa hàng,
rồi cũng đủ đám đông các đồ vật khó tả
rồi bắt đầu tiếng chào xáo lan ra
về một cửa hàng ngoại ô, hẳn thế,
            sẽ bán lẻ món người
Tôi ngờ rằng món này ướp tỏi không có chuyện tranh chấp chính trị
và chắc chắn có một thứ tủ lạnh tội ác
sẽ chế ra một bom Nơ-tơ-rôn khác,
một thứ bom chỉ hủy diệt đồ vật
Không gieo thiệt hại cho người…
Nhưng sẽ còn gì, nếu đồ vật không tồn tại nữa?
Kẻ vung lên thanh gươm nguyên tử
Sẽ chết bởi gươm nguyên tử.


----------------
(1) Khu vườn lớn do Đi-xnây, một người Mỹ dựng ra, có bày biện nhiều cảnh quan và đồ chơi lý thú.


NGUYỄN KHOA ĐIỀM dịch
(Theo bản tiếng Pháp của A-Karvovski)


(13/6-85)






Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • JEZIBELl - RM.SHANMUGAM CHETTIAR

  • L.T.S: Cùng với Blok, Mai-a-cốp-xki, Ê-xê-nhin, Pa-xter-nak... Ma-ri-na Xvê-ta-ê-va (Marina Tsvetaeva 1892 - 1941) là một trong những nhà thơ Nga - Xô Viết lớn nhất của thế kỷ XX. Đường đời của bà là con đường đầy gian truân của một trí thức phải khắc phục nhiều lầm lỗi để đến với chân lý cách mạng. Một trái tim nồng cháy tình yêu Tổ quốc, dân tộc, nhưng Xvê-ta-ê-va mất gần 20 năm sau Cách mạng Tháng Mười sống lưu vong ở nước ngoài và trở về đất nước không được bao lâu thì mất.

  • OCTAVIO PAZ

    (Nobel Văn Chương 1990)

  • Eduardas Megielaitis sinh năm 1919 (đã mất 6/6/1997), Chủ tịch Hội Nhà văn  Litva (Liên Xô cũ) từ năm 1959, có tác phẩm được in từ 1934. Anh hùng lao động Liên Xô, Giải thưởng Lê-nin về văn học (năm 1961).

  • Lép Ôsanhi - Vlađimia Xôkôlôp

  • LGT: Charles Simic sinh năm 1938 tại Belgrade, Nam Tư. Năm 16 tuổi ông cùng với mẹ sang Mỹ sống với người cha ở New York City. Hiện ông là giáo sư khoa tiếng Anh ở trường Đại học New Hamsphire. Thơ Simic không dễ xếp loại. Một số bài thơ của ông có khuynh hướng siêu thực, siêu hình trong khi các bài khác là những chân dung hiện thực của bạo lực và tuyệt vọng.

  • Sam Hamill - Kevin Bowen - Martha Collins - Yusef Komunyakaa - Fred Marchant - Lady  Borton - Nguyễn Bá Chung - Bruc Weil - Carolyn Forché - Larry Heinemann - George Evans

  • F.G. Lorca: Nhà thơ Tây Ban Nha, một trong những nhà thơ lớn của thế kỷ, một chiến sĩ chống phát xít đã bị kẻ thù ám hại năm 1938, khi ông vừa tròn 40 tuổi.

  • Bạn đọc chắc hãy còn nhớ vào tháng 2 năm 2011, Tạp chí Sông Hương đón nhận sự ghé thăm của đoàn Nhà văn Nga, trong đó có nhà thơ Terekhin Vadim.

  • Jean Amrouche (1906-1962), người An-giê-ri, dạy học ở Tuy-ni-di, viết báo. Có nhiều thi phẩm in ra trước 1940. Chết trước khi An-giê-ri dành được độc lập, trong khi ông vẫn là một trong những người thành tâm và quyết liệt tìm giải pháp cho vấn đề thiết cốt này.

  • Từ nhiều thế kỷ nay, chúng ta đã quen với chuyện họa thơ Đường. Còn đây là một cuộc họa thơ bằng tiếng Tây Ban Nha. Và là một cuộc họa thơ độc đáo về Bác Hồ kính yêu của chúng ta.

  • Trong một lần thăm Ang-co, tôi cùng đi với chị Khô Chan dra, một cựu sinh viên văn khoa Đại học Phnôm Pênh. Chị ở trong một gia đình trí thức công chức dưới thời Si-ha-nuc nên hầu hết những người thân đều bị Pôn Pốt sát hại.

  • L.T.S: Ma-xê-đoan (Nam Tư) là xứ sở thơ mộng của phong cảnh đẹp, của du lịch, hội hè và của thơ, là một cái nôi văn hoá cổ xưa của nhân loại, nằm trên bán đảo Ban-căng, có một cái gì gợi nên một số nét tương đồng với Huế.

  • Nhà thơ nữ Ana Blandiana (sinh năm 1942) hiện là một trong những cây bút tiêu biểu của văn học hiện đại Ru-ma-ni.

  • Paul Henry là một trong những nhà thơ hàng đầu xứ Wales. Được cố thi sĩ Ursula Askham Fanthorpe diễn tả như “một nhà thơ của nhà thơ”, kết hợp “cảm xúc nhạc của những con chữ với sự tưởng tượng sáng tạo không ngừng nghỉ”, ông đến với thơ qua việc viết lời ca.

  • PI-MEN PAN-TREN-CƠNhững vật dụng của lính

  • LTS: Bruce Weigl nhà thơ Mỹ từng là cựu chiến binh tham chiến tại Quảng Trị những năm 1967-1968. Là người chứng kiến những sự thật kinh hoàng trong chiến tranh Việt Nam, ông tìm đến với thơ ca như một sự cứu rỗi linh hồn. Năm 1987, Bruce Weigl lần đầu tiên trở lại Việt Nam và “Tôi không bao giờ tưởng tượng được người Việt Nam lại tiếp đãi mình ân cần như thế”.

  • PABLO NERUDATrên đỉnh Machu Picchu(*)