Lép Ôsanhi - Vlađimia Xôkôlôp
Tàu lửa bắt đầu rời Mát-xcơ-va đi Pê-téc-bua năm 1851. (Tranh dân gian) - Ảnh: internet
LÉP ÔSANHI
Tin hay không, tùy em
I
Tàu nhả khói đi xa,
Đi xa và xa mãi
Chỉ ánh đèn thoáng qua
Như em cười nhắn lại,
Vẫn thế bầu trời đêm,
Vẫn con đường bụi bẩn,
Nhưng em đi, thiếu em,
Trong làng như vắng hẳn.
Tin hay không, tùy em,
Nhưng trong làng vắng hẳn.
II
Hai năm em và anh
Sống cùng làng, hãy nhớ.
Nhiều hôm như vô tình
Ta gặp nhau bỡ ngỡ.
Anh tưởng anh quen em,
Quen thế thôi, lạnh nhạt.
Anh hiểu: anh yêu em!
Đúng khi tàu xuất phát.
Tin hay không , tùy em -
Đúng khi tàu xuất phát.
III
Tàu nhả khói đi xa,
Đi xa và xa mãi,
Chỉ ánh đèn thoáng qua,
Như em cười nhắn lại.
Đường em rộng thênh thang
Chờ em bao điều mới,
Nhưng hãy nhớ ở làng
Có người buồn, đang đợi…
Tin hay không , tùy em
Nhưng có người đang đợi.
Bài hát của cô gái
Rồi sẽ đến , mối tình đầu sẽ đến,
Duy không ai biết được: đến bao giờ?
Sẽ le lói trong trái tim e thẹn
Ngọn lửa tình cô gái trẻ ngây thơ .
Ngọn lửa ấy còn run run, sợ hãi ,
Vừa nhóm lên đang dễ tắt … lúc này
Hãy giữ nó, giữ trong tim, bạn gái,
Và xin đừng , đừng thổ lộ ai hay.
Bạn hồi hộp đợi chờ và bối rối ,
Nghe chân ai đang bước nhẹ bên thềm,
Nhưng tình yêu lần đầu lên tiếng gọi,
Đừng vội vàng đáp lại , hãy chờ xem.
Sẽ có lúc lửa tình yêu bùng cháy
Trong trái tim chân thật của hai người
Đừng e lệ giấu tình yêu lúc ấy,
Hạnh phúc này đừng vô ý đánh rơi.
VLAĐIMIA XÔKÔLÔP
Tuổi mười bảy
1
Đẹp sao, vâng, đẹp sao
Những chàng trai mười bảy,
Chưa được yêu lần nào ,
Nằm từ lâu không dậy
Bom đạn của chiến tranh
Đã xuyên qua đầu họ
Nhưng họ sống đến giờ -
Như con và như bố.
2
Đẹp sao, vâng, đẹp sao
Các cô gái mười bảy,
Chưa được yêu lần nào,
Nằm từ lâu không dậy
Bom đạn của chiến tranh
Giết họ khi còn trẻ
Nhưng họ sống đến giờ -
Như con và như mẹ
3
Sống họ xinh thế nào,
Chết họ xinh như vậy.
Trên mồ họ mọc cao
Những bông hoa đỏ cháy
Ước mơ thời chiến tranh,
Nay đã thành sự thật.
Mười bảy tuổi hy sinh ,
Họ - những người đẹp nhất.
THÁI BÁ TÂN dịch
(Từ nguyên bản tiếng Nga , trích tập Bài hát này cho em gồm các bài thơ được phổ nhạc)
(SH21/10-86)
Muin Bseiso - Rasul Gamzatov
Vladimir Vladimirovich Nabokov (1899 -1977) là nhà văn Nga - Mỹ nổi tiếng. Ông sáng tác ở nhiều thể loại văn học khác nhau. Ông được giải thưởng Nôben văn học năm 1955. Những tiểu thuyết đặc sắc của ông là: - Quà tặng (1937), Đến nơi xử tử (1935 - 1936), Lolita (1955)…
L.T.S. "BÍ ẨN TÌNH YÊU" là tập thơ chọn lọc những bài thơ tình nổi tiếng thế giới do dịch giả Đắc Lê và nhà thơ Lữ Huy Nguyên tuyển chọn, NXB Văn Học ấn hành 1993. TCSH trân trọng giới thiệu dưới đây một số bài trích trong tập thơ đó.
Ogiwara Seisensui - Murakami Kijo - Saito Sanki - Ozaki Hosai
Tác giả Jon Fosse, người Na Uy, 64 tuổi, đạt Giải Nobel Văn học 2023 nhờ “những vở kịch và văn xuôi tân tiến, lên tiếng cho những điều không thể nói”.
Takít Vácvisiôtít - Côxtát Haridít - Côxtót Xteriôpulốt - Ghê-oóc-ghi Xê-phê-rít
BIỆN CHI LÂM
Biện Chi Lâm sinh năm 1910, quê tỉnh Giang Tô, Trung Quốc. Từ thuở nhỏ, ông đã có thiên hướng yêu thích thơ ca kim cổ.
MARINA TSVETAEVA
RAINER MARIA RILKE
LOUISE GLUCK
(Nobel Văn học năm 2020)
Là tác giả bốn cuốn sách viết về Việt
Mihai Eminescu (1850 - 1889) là một trong những nhà thơ lớn nhất của nước Rumani. Sống nhiều ở miền núi, nhất là thuộc hai vùng Ardeal và Moldova, ông am hiểu sâu sắc về đời sống cực khổ của người dân trong vùng cũng như toàn xã hội. Thơ Eminescu trĩu nặng tình yêu thiên nhiên, con người, thấm đượm chất văn hóa dân gian của dân tộc mình.
Louise Glück - Jaroslav Seifert - Wislawa Szymborska - Pablo Neruda - Boris Pasternak
Thi sĩ Hy Lạp, 1911 - 1996, giải Nobel Văn chương năm 1979. Nỗ lực chính của thơ ông là gạt khỏi tâm thức con người những bất công phi lý và bồi đắp các yếu tố thiên nhiên thông qua sức mạnh đạo đức, để đạt được sự minh triết cao nhất có thể có trong sự biểu đạt; và cuối cùng, là để đạt đến sự tiếp cận cõi huyền nhiệm của ánh sáng, những siêu hình của mặt trời mà ông là một “người sùng bái” - một kiểu thần tượng theo định nghĩa của riêng ông. Nghệ thuật của ông mang tính đồng hiện hướng đến kỹ thuật thi ca nhằm giới thiệu cấu trúc nội tâm, điều này thể hiện rất rõ trong nhiều bài thơ của ông.
Trần Phương Kỳ giới thiệu và dịch
LTS. Thơ ca vốn có truyền thống lâu đời. Thơ ca của các dân tộc da đen cũng mang những đặc thù ấy. Từ những nhà thơ ở xứ Akhenaton bên Ai Cập (Thế kỷ thứ 14 trước Công nguyên) cho đến Gwendolyn Brooks, Leroi Jones và những giọng thơ mạnh mẽ của các nhà thơ Mỹ đương thời, chặng đường ấy tính ra đã mấy ngàn năm.
CAROLYN FORCHÉ
LTS: Tên tuổi của Ôma Khayam, nhà thơ, nhà khoa học Ba Tư thế kỷ XI đã được bạn đọc Việt Nam biết đến và yêu thích qua tập Thơ cổ Ba Tư, NXB Văn Học ấn hành năm 1984. Thơ của ông ngang tàng, độc đáo, mãnh liệt và đầy tính triết lý sâu sắc chủ yếu tập trung vào đề tài tình yêu và rượu.
BIỆN CHI LÂM
Biện Chi Lâm卞之琳 (1910 - 2000), nhà thơ, dịch giả, nhà nghiên cứu tiêu biểu của văn học Trung Quốc hiện đại. Quê gốc Giang Tô. Bút danh thường dùng: Quý Lăng.
Nghe như cổ tích chuyện cậu bé Ali Ahmad Said Esber, con nhà nông dân vùng Al Qassabina, miền tây nước Syria: từ chỗ nhà nghèo, không được tới trường, sau có cơ hội đi học và đạt trình độ tiến sĩ; từ chỗ thuở nhỏ làm thơ gởi các báo nhưng không bài nào được đăng, sau lại là người sáng lập một tạp chí chuyên về thơ và trở thành “nhà thơ vĩ đại nhất còn sống của thế giới Ả Rập” với bút danh Adonis.
JAN WAGNER (Schriftsteller)
J. Wagner sinh ngày 18/10/1971 tại Hamburg CHLB Đức, nhà thơ, nhà văn và thông dịch viên.