Chùm thơ Wisława Szymborska

15:56 25/05/2009
Thi sĩ viết về những điều vi tế của cuộc sống, từ chối nói về mình và cả những người nổi tiếng. Cả cuộc đời, thi sĩ chỉ nhắc đến Thomas Mann một lần trong thơ như sự thiếu vắng con người - sự lưu lạc trên chính quê hương, tâm hồn mình. Và Brodsky, một tâm hồn bị lệch kênh, bị trục xuất… trong diễn văn Nobel. Và cả dòng sông tư nghị: Heraclite.Szymborska, nữ sĩ Ba Lan, là một bậc thầy về thơ nghị luận, viết thơ cũng như cả tiểu luận là để trả lời cảm xúc và câu hỏi: tôi không biết. Sinh 1923 tại Kornik, hiện sống tại Krakow. Viết khoảng 210 bài thơ và một ít tiểu luận từ 1952 đến nay. Nobel văn chương 1996 và nhiều giải thưởng danh dự khác.

 

WISLAWA SZYMBORSKA

Cánh chim trở lại

Lại một mùa xuân mang cánh chim trở về lúc sớm mai.
Khởi đầu niềm vui, bản năng thiên di.
Nó có một quãng, để bỏ đi - và chúng rơi vào trong tuyết,
và chết ngập, một kiểu chết
không phù hợp với thanh quản rất hay và móng vuốt,
sụn cứng, và màng da,
động mạch, đường ruột,
lồng ngực và cột sống ngân lên khoái trá,
lông chúng thích hợp việc dựng lều chính mình trong bảo tàng nhà nghề,
và cái mỏ nhẫn nại kiểu nhà thờ.

Đó không là khúc sầu ca, mà là sự phẫn nộ,
đó là cách xuyên tạc hình dáng của sinh thể,
một cái diều vượt khỏi giai điệu lời ca,
một ít khoảng không, vô số bàn tay,
bao điều phi lý bị giới hạn trong tính đồng nhất
của thời gian và nơi chốn trong kịch cổ điển,
đến âm thanh đôi cánh,
tuyết và tiếng hót đến nghỉ ngơi cùng đá,
cái riêng tư từ ngàn xưa và lối đi thô tháp
nhìn cuộc sống như chuỗi thử thách chưa thành.

Bầu trời

Bầu trời là nơi chúng ta bắt đầu.
Cửa sổ không bệ, không khung, không kính.
Một khe hở rộng, và chẳng có gì
ở phía bên kia.

Tôi không chờ một đêm đầy sao,
cũng không ngẩng đầu lên,
để ngắm bầu trời.
Tôi có bầu trời ở lưng, giấu trong tay và mi mắt.
Bầu trời vây kín tôi
và nâng tôi từ dưới.

Những ngọn núi cao nhất
cũng không gần hơn biển cả
thung lũng tới bầu trời.
Chẳng có nơi nào nhiều hơn một bầu trời
ở nơi khác.
Một đám mây vô tâm
bị ép vào bầu trời như mộ dưới đất.
Con chuột chũi cũng lên cao, cao trên bầu trời
như con cú vỗ cánh.
Bất cứ cái gì rơi xuống vực thẳm,
cũng là rơi từ trời vào trong trời.
Dễ vỡ, loãng toẹt, không vững,
dễ cháy, dễ bay hơi
là bầu trời, bầu trời lốm đốm,
bầu trời gió tốc, bầu trời chất đống.
Bầu trời mọi nơi,
ngay trong bóng tối ngay dưới làn da.

Tôi ăn bầu trời, tôi thải bầu trời.
Tôi là bẫy của bẫy,
một cư dân định cư,
một cái ôm được ôm,
một câu hỏi trả lời trong câu hỏi.
Sự chia rẽ mặt đất bầu trời
không phải là cách đúng
của tư duy toàn mãn.
Nó chỉ thừa nhận một cách sống
với địa chỉ chính xác -
tôi sẽ dễ tìm hơn
Nếu thực sự muốn tìm.
Dấu hiệu riêng tôi
đắm say và thất vọng.


Phía dưới vì sao

Tôi xin lỗi sự tình cờ mà tôi gọi là sự bắt buộc.
Tôi xin lỗi sự ràng buộc trong trường hợp tôi sai lầm.
Đừng cáu giận, hạnh phúc, bởi tôi xem là của riêng tôi.
Có thể những người chết sẽ tha thứ bởi trong tâm trí tôi họ vẫn còn lung linh.
Tôi xin lỗi quãng thời gian dài của nhân thế bị bỏ lỡ trong mỗi giây lát.
Tôi xin lỗi mối tình đã qua bởi tôi xem tình yêu mới là tình đầu đời.
Hãy thứ lỗi cho tôi, chiến tranh dai dẳng, tôi chỉ mang về những đóa hoa.
Hãy thứ lỗi cho tôi, vết thương hở miệng, sự nhức nhối trên ngón tay.
Tôi xin lỗi vũ điệu minuet, bởi đám đông gào thét từ vực sâu.
Tôi xin lỗi những người ở sân ga bởi giấc ngủ mê tận năm giờ sáng.
Hãy ân xá cho tôi, hy vọng bị quá khích, bởi những lúc tôi cười.
Hãy ân xá cho tôi, các sa mạc, bởi tôi không xông tới với những thìa nước mát.
Còn ngươi, hỡi chim ưng, vẫn mỏi cánh bao năm trong chiếc lồng,
nhìn im, bất động, luôn luôn vào một điểm,
hãy tha thứ cho ta ngay khi ngươi còn bị nhốt.
Tôi xin lỗi thân cây bị chặt bởi bốn chiếc chân bàn.
Tôi xin lỗi những câu hỏi lớn bởi những câu trả lời tầm thường.
Hỡi chân lý, xin đừng quan sát tôi kỹ quá.
Sự uy nghiêm, hãy hào hiệp với tôi.
Giữa chòm sao với tôi, hiện diện sự bí ẩn, bởi sợi tơ kéo từ tấm màn che mặt.
Còn linh hồn, xin đừng kết tội bởi ta chỉ có ngươi thi thoảng.
Tôi xin lỗi vạn vật bởi tôi không ở muôn nơi.
Tôi xin lỗi tất cả bởi tôi không biết hóa thành đàn ông và đàn bà.
Tôi biết đến khi nào còn sống sẽ không gì biện hộ thay tôi,
bởi tôi là chướng ngại chính tôi.
Đừng cố hiểu tôi thêm nữa, hỡi ngữ ngôn, bởi tôi vay mượn những từ trọng lượng,
và cố làm cho nó nhẹ tênh.


Hà Văn Bảy dịch & giới thiệu
(172/06-03)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • JEZIBELl - RM.SHANMUGAM CHETTIAR

  • L.T.S: Cùng với Blok, Mai-a-cốp-xki, Ê-xê-nhin, Pa-xter-nak... Ma-ri-na Xvê-ta-ê-va (Marina Tsvetaeva 1892 - 1941) là một trong những nhà thơ Nga - Xô Viết lớn nhất của thế kỷ XX. Đường đời của bà là con đường đầy gian truân của một trí thức phải khắc phục nhiều lầm lỗi để đến với chân lý cách mạng. Một trái tim nồng cháy tình yêu Tổ quốc, dân tộc, nhưng Xvê-ta-ê-va mất gần 20 năm sau Cách mạng Tháng Mười sống lưu vong ở nước ngoài và trở về đất nước không được bao lâu thì mất.

  • OCTAVIO PAZ

    (Nobel Văn Chương 1990)

  • Eduardas Megielaitis sinh năm 1919 (đã mất 6/6/1997), Chủ tịch Hội Nhà văn  Litva (Liên Xô cũ) từ năm 1959, có tác phẩm được in từ 1934. Anh hùng lao động Liên Xô, Giải thưởng Lê-nin về văn học (năm 1961).

  • Lép Ôsanhi - Vlađimia Xôkôlôp

  • LGT: Charles Simic sinh năm 1938 tại Belgrade, Nam Tư. Năm 16 tuổi ông cùng với mẹ sang Mỹ sống với người cha ở New York City. Hiện ông là giáo sư khoa tiếng Anh ở trường Đại học New Hamsphire. Thơ Simic không dễ xếp loại. Một số bài thơ của ông có khuynh hướng siêu thực, siêu hình trong khi các bài khác là những chân dung hiện thực của bạo lực và tuyệt vọng.

  • Sam Hamill - Kevin Bowen - Martha Collins - Yusef Komunyakaa - Fred Marchant - Lady  Borton - Nguyễn Bá Chung - Bruc Weil - Carolyn Forché - Larry Heinemann - George Evans

  • F.G. Lorca: Nhà thơ Tây Ban Nha, một trong những nhà thơ lớn của thế kỷ, một chiến sĩ chống phát xít đã bị kẻ thù ám hại năm 1938, khi ông vừa tròn 40 tuổi.

  • Bạn đọc chắc hãy còn nhớ vào tháng 2 năm 2011, Tạp chí Sông Hương đón nhận sự ghé thăm của đoàn Nhà văn Nga, trong đó có nhà thơ Terekhin Vadim.

  • Jean Amrouche (1906-1962), người An-giê-ri, dạy học ở Tuy-ni-di, viết báo. Có nhiều thi phẩm in ra trước 1940. Chết trước khi An-giê-ri dành được độc lập, trong khi ông vẫn là một trong những người thành tâm và quyết liệt tìm giải pháp cho vấn đề thiết cốt này.

  • Từ nhiều thế kỷ nay, chúng ta đã quen với chuyện họa thơ Đường. Còn đây là một cuộc họa thơ bằng tiếng Tây Ban Nha. Và là một cuộc họa thơ độc đáo về Bác Hồ kính yêu của chúng ta.

  • Trong một lần thăm Ang-co, tôi cùng đi với chị Khô Chan dra, một cựu sinh viên văn khoa Đại học Phnôm Pênh. Chị ở trong một gia đình trí thức công chức dưới thời Si-ha-nuc nên hầu hết những người thân đều bị Pôn Pốt sát hại.

  • L.T.S: Ma-xê-đoan (Nam Tư) là xứ sở thơ mộng của phong cảnh đẹp, của du lịch, hội hè và của thơ, là một cái nôi văn hoá cổ xưa của nhân loại, nằm trên bán đảo Ban-căng, có một cái gì gợi nên một số nét tương đồng với Huế.

  • L.T.S: “Mẹ và bom nơ-tơ-rôn” là trường ca của nhà thơ Liên Xô nổi tiếng E.Ép-tu-sen-cô. Trường ca được trao giải thưởng Nhà nước Liên Xô năm 1984. Xin trân trọng giới thiệu một đoạn trích từ trường ca.

  • Nhà thơ nữ Ana Blandiana (sinh năm 1942) hiện là một trong những cây bút tiêu biểu của văn học hiện đại Ru-ma-ni.

  • Paul Henry là một trong những nhà thơ hàng đầu xứ Wales. Được cố thi sĩ Ursula Askham Fanthorpe diễn tả như “một nhà thơ của nhà thơ”, kết hợp “cảm xúc nhạc của những con chữ với sự tưởng tượng sáng tạo không ngừng nghỉ”, ông đến với thơ qua việc viết lời ca.

  • PI-MEN PAN-TREN-CƠNhững vật dụng của lính

  • LTS: Bruce Weigl nhà thơ Mỹ từng là cựu chiến binh tham chiến tại Quảng Trị những năm 1967-1968. Là người chứng kiến những sự thật kinh hoàng trong chiến tranh Việt Nam, ông tìm đến với thơ ca như một sự cứu rỗi linh hồn. Năm 1987, Bruce Weigl lần đầu tiên trở lại Việt Nam và “Tôi không bao giờ tưởng tượng được người Việt Nam lại tiếp đãi mình ân cần như thế”.