Chùm thơ Ana Blandiana

14:50 02/03/2011
Nhà thơ nữ Ana Blandiana (sinh năm 1942) hiện là một trong những cây bút tiêu biểu của văn học hiện đại Ru-ma-ni.

Nhà thơ Ana Blandiana - Ảnh: internet

Ngay từ tập thơ đầu tay Gương mặt thứ nhất của số nhiều (1964), Ana Blandiana lập tức được chú ý bởi tài năng diễn đạt những cảm xúc tươi mới giàu nữ tính và những ý nghĩ sâu sắc về cuộc đời. Nhà thơ được giới thiệu rộng rãi ở trong và ngoài nước với tư cách tác giả các tập thơ Điểm huyệt (1967), Điều bí mật thứ ba (1970), 50 bài thơ (1970), Tháng mười, tháng một, tháng chạp (1972), Thơ (1974), Giấc mơ từ giấc mơ (1977)và tiểu thuyết viễn tưởng Bốn mùa (1977).


ANA BLANDIANA


Cách mạng


Phút đau khổ nén lại thành lặng im
Người lính trẻ đã lặng im trên xác bạn,
Và giống đến lạ lùng một vòm cổng
Ngày khải hoàn cong xuống người hy sinh.

Những chiếc lá đỏ rơi như nước mắt một người cha
Mỗi cây lá đỏ đều thân thiết tựa Lê-nin.
Người lính trẻ nghe tiếng kêu của bầy sếu đang bay
Tiếng kêu ấy nao lòng như tiếng nói Lê-nin.

Và dưới những cây lá đỏ, dưới cánh sếu bay
Qua cõi chết đến một thời tốt đẹp
Cả bầu không khí nặng đầy như một khải hoàn môn
Người lính trẻ hiểu đó là Cách mạng và tiến lên phía trước
Người lính trẻ chính là tôi
.


Nằm trên cỏ


Nằm trên cỏ nghe đêm kề sát đất,
Nghe không gian tĩnh mịch, êm đềm,
Con kiến lửa lục hoài trong mái tóc,
Ý thơ nào mới mẻ chợt ngời lên.

Giương trên đầu bát ngát một vòm đêm
Ngàn sao mở bao mắt nhìn linh lợi,
Cọng cỏ héo, hương như mời như gọi
Cuốn sâu vào trong vòng xoáy miên man.

Rơi, rơi, rất lâu, thiêm thiếp, nhẹ nhàng,
Bỗng chợt gặp trên mình vầng trăng mọc
Và trăng áp một làn môi dịu mát
In nụ hôn son sắt trọn đời.



Phép mầu nhiệm của mưa


Em yêu mưa làm sao, em càng yêu mê mệt mưa rào
Mưa rào nhiệt cuồng và mưa rây dìu dịu,
Cơn mưa rây trinh nữ
Và trận mưa rào thiếu phụ xô bồ.
Mưa nấm nhô
            mưa rỉ rắc
                        với hơi thu…
Em yêu làm sao, em càng yêu mê mệt mưa rào
Yêu được lăn mình trên những ngọn cỏ cao
Lấm tấm những hạt mưa trong trắng
Ngắt một cọng cỏ mềm đặt lên môi, em nhấm
Và em đi
Cho tất cả đàn ông đều nhìn em say đắm.
Em hiểu, chẳng hay ho gì khi mở miệng nói ra
“Tôi là người đàn bà xinh đẹp nhất”
- Nghe ngốc nghếch, và có khi sai sự thật.
Nhưng cho phép em khi trời bắt đầu mưa
Chỉ khi trời vừa mới bắt đầu mưa
Được nói lên lời thần diệu nhường kia:
“Em là người đàn bà xinh đẹp nhất”.

Em là người đàn bà xinh đẹp nhất
Bởi vì trời đất trong mưa,
Từng sợi nước đi qua đan vào từng sợi tóc,
Em là người đàn bà xinh đẹp nhất
Bởi vì gió hà hơi vào mặt,
Gấu váy bay tung, em ngượng ngập khép chân mình.

Em là người đàn bà xinh đẹp nhất
Bởi vì anh
            đang ở xa em và em đang mong đợi.
Em là người đàn bà xinh đẹp nhất
Bởi vì em biết đợi
Và anh biết rằng em đang đợi anh.

Khắp không gian
Lan tỏa yêu đương và dịu mát
Tất cả khách qua đường đều tìm gặp hơi mưa
Và trong khi mưa tình yêu là bất chợt
Tất cả khách qua đường đều được tương tư,
Và em đợi anh bây giờ.

Anh có biết chăng là -
Em yêu mưa làm sao,
Em càng yêu mê mệt mưa rào
Mưa rào nhiệt cuồng và mưa rây dìu dịu,
Cơn mưa rây trinh nữ
Và trận mưa rào thiếu phụ xô bồ.


ĐĂNG BẨY dịch



ĐIT-MA BET-XƠ (Đức)


Huế

Tặng Điềm và Vỹ

Sông Hương sóng vỗ thâu đêm
Cũng có lúc trào sôi giận dữ
Trên gương mặt của kinh đô cũ
Ánh lên những nét bông đùa

Chúng tôi cười vang trong buổi họp đông vui,
Trong tiếng chuông, chùa xa vọng lại
Con đường xưa tới nhà Bảo Đại
Nay dẫn về trụ sở Ủy ban.

Chúng tôi đứng trên cầu Tràng Tiền,
Mắt nhìn tới xa xăm

Ôi, hãy dừng chân! Ta là người xứ Huế
Phải đâu là khách đến để rồi đi!


HUY HIỀN dịch từ tiếng Đức
(11/1&2-85)



Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • JEZIBELl - RM.SHANMUGAM CHETTIAR

  • L.T.S: Cùng với Blok, Mai-a-cốp-xki, Ê-xê-nhin, Pa-xter-nak... Ma-ri-na Xvê-ta-ê-va (Marina Tsvetaeva 1892 - 1941) là một trong những nhà thơ Nga - Xô Viết lớn nhất của thế kỷ XX. Đường đời của bà là con đường đầy gian truân của một trí thức phải khắc phục nhiều lầm lỗi để đến với chân lý cách mạng. Một trái tim nồng cháy tình yêu Tổ quốc, dân tộc, nhưng Xvê-ta-ê-va mất gần 20 năm sau Cách mạng Tháng Mười sống lưu vong ở nước ngoài và trở về đất nước không được bao lâu thì mất.

  • OCTAVIO PAZ

    (Nobel Văn Chương 1990)

  • Eduardas Megielaitis sinh năm 1919 (đã mất 6/6/1997), Chủ tịch Hội Nhà văn  Litva (Liên Xô cũ) từ năm 1959, có tác phẩm được in từ 1934. Anh hùng lao động Liên Xô, Giải thưởng Lê-nin về văn học (năm 1961).

  • Lép Ôsanhi - Vlađimia Xôkôlôp

  • LGT: Charles Simic sinh năm 1938 tại Belgrade, Nam Tư. Năm 16 tuổi ông cùng với mẹ sang Mỹ sống với người cha ở New York City. Hiện ông là giáo sư khoa tiếng Anh ở trường Đại học New Hamsphire. Thơ Simic không dễ xếp loại. Một số bài thơ của ông có khuynh hướng siêu thực, siêu hình trong khi các bài khác là những chân dung hiện thực của bạo lực và tuyệt vọng.

  • Sam Hamill - Kevin Bowen - Martha Collins - Yusef Komunyakaa - Fred Marchant - Lady  Borton - Nguyễn Bá Chung - Bruc Weil - Carolyn Forché - Larry Heinemann - George Evans

  • F.G. Lorca: Nhà thơ Tây Ban Nha, một trong những nhà thơ lớn của thế kỷ, một chiến sĩ chống phát xít đã bị kẻ thù ám hại năm 1938, khi ông vừa tròn 40 tuổi.

  • Bạn đọc chắc hãy còn nhớ vào tháng 2 năm 2011, Tạp chí Sông Hương đón nhận sự ghé thăm của đoàn Nhà văn Nga, trong đó có nhà thơ Terekhin Vadim.

  • Jean Amrouche (1906-1962), người An-giê-ri, dạy học ở Tuy-ni-di, viết báo. Có nhiều thi phẩm in ra trước 1940. Chết trước khi An-giê-ri dành được độc lập, trong khi ông vẫn là một trong những người thành tâm và quyết liệt tìm giải pháp cho vấn đề thiết cốt này.

  • Từ nhiều thế kỷ nay, chúng ta đã quen với chuyện họa thơ Đường. Còn đây là một cuộc họa thơ bằng tiếng Tây Ban Nha. Và là một cuộc họa thơ độc đáo về Bác Hồ kính yêu của chúng ta.

  • Trong một lần thăm Ang-co, tôi cùng đi với chị Khô Chan dra, một cựu sinh viên văn khoa Đại học Phnôm Pênh. Chị ở trong một gia đình trí thức công chức dưới thời Si-ha-nuc nên hầu hết những người thân đều bị Pôn Pốt sát hại.

  • L.T.S: Ma-xê-đoan (Nam Tư) là xứ sở thơ mộng của phong cảnh đẹp, của du lịch, hội hè và của thơ, là một cái nôi văn hoá cổ xưa của nhân loại, nằm trên bán đảo Ban-căng, có một cái gì gợi nên một số nét tương đồng với Huế.

  • L.T.S: “Mẹ và bom nơ-tơ-rôn” là trường ca của nhà thơ Liên Xô nổi tiếng E.Ép-tu-sen-cô. Trường ca được trao giải thưởng Nhà nước Liên Xô năm 1984. Xin trân trọng giới thiệu một đoạn trích từ trường ca.

  • Paul Henry là một trong những nhà thơ hàng đầu xứ Wales. Được cố thi sĩ Ursula Askham Fanthorpe diễn tả như “một nhà thơ của nhà thơ”, kết hợp “cảm xúc nhạc của những con chữ với sự tưởng tượng sáng tạo không ngừng nghỉ”, ông đến với thơ qua việc viết lời ca.

  • PI-MEN PAN-TREN-CƠNhững vật dụng của lính

  • LTS: Bruce Weigl nhà thơ Mỹ từng là cựu chiến binh tham chiến tại Quảng Trị những năm 1967-1968. Là người chứng kiến những sự thật kinh hoàng trong chiến tranh Việt Nam, ông tìm đến với thơ ca như một sự cứu rỗi linh hồn. Năm 1987, Bruce Weigl lần đầu tiên trở lại Việt Nam và “Tôi không bao giờ tưởng tượng được người Việt Nam lại tiếp đãi mình ân cần như thế”.

  • PABLO NERUDATrên đỉnh Machu Picchu(*)