Ảnh: Internet
PIMEN PAN-TREN-CÔ Cánh rừng còn mìn Cạnh làng Du-bráp-na Ngược với lô-gic của người già Có một cánh rừng bị mìn nham nhở Im lìm quen với số phận xót xa. Dường như cái thời tươi đẹp đã qua Cánh rừng bây giờ cô độc, câm lặng Dấu vết chiến tranh còn in dày đặc Trên từng khóm lá, thân cây Ở đây chả có công binh Cả năm bốn tư, những năm sau nữa Đến tận giờ mìn ngày ngày vẫn nổ Nỗi kinh hoàng gieo rắc chung quanh Không chỉ một năm rừng bị vây quanh Ngăn cách người bằng kẽm gai tua tủa Từ đằng xa ngỡ tiếng rì rào muôn thuở Yên lành như bao cánh rừng xa. Ở đây biết bao mìn Đức, mìn ta Mìn tự tạo, mìn công binh xưởng Trẻ con biết: vào rừng rất nguy hiểm Người lớn gọi rừng nộ chúng…, phòng xa… Cháu bé trai không trèo cây, vặt quả Cháu bé gái nhặt nấm không đi qua Bởi dưới mỗi gốc cây là mìn đang ẩn Sẵn sàng bùng lên những khối chớp lòa. Lỡ đôi lúc có chú cáo, con chồn Từ bụi này chạy vọt sang gốc nọ Lửa chớp bùng lên trùm tất cả Khói mìn khét lẹt tận xóm thôn. Bác du kích già lại đăm chiêu Cơn đau như bao lần, trăn trở Ôi thế kỷ hôm nay văn minh và khắc nghiệt Cuộc đấu tranh còn tiếp tục chưa thôi. XÉC-GÂY DA-CÔN-NI-CỐP Khi cây bạch dương của tôi còn sống Khi cây bạch dương của tôi còn sống Dòng nhựa đời căng sức trào tuôn Những con chim họa mi Không bay về trong tiếng sấm Xuyên vòm cây cuộc đời Quay cuồng trong gió rít Từ thăm thẳm khoảng trời Chiếc lá xanh rơi xuống! Tôi là khoảng rừng sáng Nơi có con bướm phấn tắm trong sương Nơi dãi mù vấn vương Ánh lên màu nơ đỏ. Màu sáng trắng rừng bạch dương tỏa Làm tinh khiết thêm vẻ đẹp trên đời Cho anh hiểu hơn giá trị con người Và biết mình là ai, từ đâu tới Con đường đất tôi đi không phải dài vời vợi Nhưng tôi cảm ơn số phận muôn lần Bởi màu trắng của bạch dương là vĩnh viễn ở đời Nơi quê tôi, trong tâm trí mỗi người Quê hương ơi vùng lên từ bóng tối Của màn đêm đầy những nỗi lo âu Và con cháu tôi suốt đời gìn giữ Mảnh đất này: hạnh phúc, buồn đau Hãy mãi tươi xanh ơi cây bạch dương bằng nỗi đau sáng chói! Ca lên mãi bài ca vui sướng hân hoan! Ta cùng chung quê, sống trên cùng thửa đất Cùng cội nguồn cắm chắc trong lòng sâu. ANATÔN GRÊTANIKỐP Bài số học Năm bốn lăm Lớp một Chúng tôi học giờ số học Những đứa trẻ còm nhom, đói rách, còi cọc Đang học những phép nhân chia. Cô giáo viết lên bảng đen Những con số Tôi bỗng nghe mặt mày xây xẩm Cháy cả ruột gan: Hôm qua người ta bảo rằng anh trai tôi Đã hy sinh rồi ở ngoài mặt trận… Cả làng như nấm mồ giữa đồng cô quạnh Bài tính trừ dài mãi theo tháng năm Mẹ tôi sinh ra được bốn trai Chỉ mình tôi - bé nhất nhà - còn sót lại Trong căn hầm mẹ tôi xem bói Ngọn nến mờ treo trên những giọt nước long lanh Liệu có qua, ôi mái đầu bạc trắng Hay lại nhân lên nỗi bất hạnh, khổ đau? Bố sẽ về - Chúng tôi sẽ cùng nhau Nỗi bất hạnh chia ba phần san sẻ… Từ buổi học xưa, bốn mươi năm tròn tháng lẻ Tôi đi, đầu điểm bạc tự lúc nào… (NGUYỄN TƯ SƠN dịch) (4/12-83) |
JEZIBELl - RM.SHANMUGAM CHETTIAR
L.T.S: Cùng với Blok, Mai-a-cốp-xki, Ê-xê-nhin, Pa-xter-nak... Ma-ri-na Xvê-ta-ê-va (Marina Tsvetaeva 1892 - 1941) là một trong những nhà thơ Nga - Xô Viết lớn nhất của thế kỷ XX. Đường đời của bà là con đường đầy gian truân của một trí thức phải khắc phục nhiều lầm lỗi để đến với chân lý cách mạng. Một trái tim nồng cháy tình yêu Tổ quốc, dân tộc, nhưng Xvê-ta-ê-va mất gần 20 năm sau Cách mạng Tháng Mười sống lưu vong ở nước ngoài và trở về đất nước không được bao lâu thì mất.
OCTAVIO PAZ
(Nobel Văn Chương 1990)
Eduardas Megielaitis sinh năm 1919 (đã mất 6/6/1997), Chủ tịch Hội Nhà văn Litva (Liên Xô cũ) từ năm 1959, có tác phẩm được in từ 1934. Anh hùng lao động Liên Xô, Giải thưởng Lê-nin về văn học (năm 1961).
Lép Ôsanhi - Vlađimia Xôkôlôp
LGT: Charles Simic sinh năm 1938 tại Belgrade, Nam Tư. Năm 16 tuổi ông cùng với mẹ sang Mỹ sống với người cha ở New York City. Hiện ông là giáo sư khoa tiếng Anh ở trường Đại học New Hamsphire. Thơ Simic không dễ xếp loại. Một số bài thơ của ông có khuynh hướng siêu thực, siêu hình trong khi các bài khác là những chân dung hiện thực của bạo lực và tuyệt vọng.
Sam Hamill - Kevin Bowen - Martha Collins - Yusef Komunyakaa - Fred Marchant - Lady Borton - Nguyễn Bá Chung - Bruc Weil - Carolyn Forché - Larry Heinemann - George Evans
F.G. Lorca: Nhà thơ Tây Ban Nha, một trong những nhà thơ lớn của thế kỷ, một chiến sĩ chống phát xít đã bị kẻ thù ám hại năm 1938, khi ông vừa tròn 40 tuổi.
Bạn đọc chắc hãy còn nhớ vào tháng 2 năm 2011, Tạp chí Sông Hương đón nhận sự ghé thăm của đoàn Nhà văn Nga, trong đó có nhà thơ Terekhin Vadim.
FREDERICK TURNER
FREDERICK FEIRSTEIN
Jean Amrouche (1906-1962), người An-giê-ri, dạy học ở Tuy-ni-di, viết báo. Có nhiều thi phẩm in ra trước 1940. Chết trước khi An-giê-ri dành được độc lập, trong khi ông vẫn là một trong những người thành tâm và quyết liệt tìm giải pháp cho vấn đề thiết cốt này.
Từ nhiều thế kỷ nay, chúng ta đã quen với chuyện họa thơ Đường. Còn đây là một cuộc họa thơ bằng tiếng Tây Ban Nha. Và là một cuộc họa thơ độc đáo về Bác Hồ kính yêu của chúng ta.
Trong một lần thăm Ang-co, tôi cùng đi với chị Khô Chan dra, một cựu sinh viên văn khoa Đại học Phnôm Pênh. Chị ở trong một gia đình trí thức công chức dưới thời Si-ha-nuc nên hầu hết những người thân đều bị Pôn Pốt sát hại.
L.T.S: Ma-xê-đoan (Nam Tư) là xứ sở thơ mộng của phong cảnh đẹp, của du lịch, hội hè và của thơ, là một cái nôi văn hoá cổ xưa của nhân loại, nằm trên bán đảo Ban-căng, có một cái gì gợi nên một số nét tương đồng với Huế.
L.T.S: “Mẹ và bom nơ-tơ-rôn” là trường ca của nhà thơ Liên Xô nổi tiếng E.Ép-tu-sen-cô. Trường ca được trao giải thưởng Nhà nước Liên Xô năm 1984. Xin trân trọng giới thiệu một đoạn trích từ trường ca.
Nhà thơ nữ Ana Blandiana (sinh năm 1942) hiện là một trong những cây bút tiêu biểu của văn học hiện đại Ru-ma-ni.
Paul Henry là một trong những nhà thơ hàng đầu xứ Wales. Được cố thi sĩ Ursula Askham Fanthorpe diễn tả như “một nhà thơ của nhà thơ”, kết hợp “cảm xúc nhạc của những con chữ với sự tưởng tượng sáng tạo không ngừng nghỉ”, ông đến với thơ qua việc viết lời ca.
PI-MEN PAN-TREN-CƠNhững vật dụng của lính
LTS: Bruce Weigl nhà thơ Mỹ từng là cựu chiến binh tham chiến tại Quảng Trị những năm 1967-1968. Là người chứng kiến những sự thật kinh hoàng trong chiến tranh Việt Nam, ông tìm đến với thơ ca như một sự cứu rỗi linh hồn. Năm 1987, Bruce Weigl lần đầu tiên trở lại Việt Nam và “Tôi không bao giờ tưởng tượng được người Việt Nam lại tiếp đãi mình ân cần như thế”.