Billy Collins (sinh ngày 22/3/1941) là thi sĩ nổi tiếng ở Mỹ. Ông đã từng hai lần được bầu là Thi bá, hay còn gọi là Nhà thơ danh dự (Poet Laureate) của Hoa Kỳ, lần đầu vào năm 2001 và lần thứ hai vào năm 2003. Trong các năm từ 2004 đến 2006 ông được bầu là Thi sĩ của bang New York.
Thi sĩ Billy Collins ở La Jolla, San Diego, 2008 - Ảnh: wiki
Ông là giáo sư của nhiều trường đại học Mỹ trong đó có trường Lehman College và trường City University New York. Là Thi bá Hoa Kỳ, Billy Collins đã từng đọc bài thơ The Names của mình tại phiên họp đặc biệt của Quốc hội Mỹ ngày 6/9/2002 nhằm tưởng nhớ các nạn nhân của vụ khủng bố 11/9. Tác giả Bruce Weber có lần viết trên tờ New York Times rằng Billy Collins là nhà thơ “được yêu thích nhất nước Mỹ”. Còn nhà thơ, nhà văn, đồng thời là nhà phê bình văn học nổi tiếng John Updike cũng không tiếc lời ca ngợi các tác phẩm thơ của Billy Collins. Ông này cho rằng các bài thơ của Billy Collins “đáng yêu, trong trẻo, dịu dàng, luôn gây sửng sốt, và thường nghiêm túc hơn là cái vẻ của chúng.” Trong thế giới thơ hiện đại chưa có nhà thơ nào thu hút độc giả bằng Billy Collins. Các buổi đọc thơ của ông thường xuyên hết vé. Hiện ông là nhà thơ có nhiều người đọc nhất ở Mỹ. Theo từ điển mở Wikipedia, khi chuyển từ nhà xuất bản University of Pittsburgh Press sang nhà xuất bản Random House, Billy Collins nhận được khoản tiền tạm ứng cho hợp đồng in ba tập sách lên đến 6 con số, và đó cũng là điều chưa từng thấy trong lịch sử thi ca. Tạp chí Poetry của Mỹ đã nhiều lần trao tặng giải thưởng thơ cho Billy Collins. Năm 2004 tạp chí này vinh danh ông là Nhà thơ của năm. Và năm 2005, Billy Collins được tặng giải thưởng Mark Twain do trong thơ ông có yếu tố hài hước.
Lương Duyên Tâm (giới thiệu và dịch)
Im lặng
Có sự im lặng bất ngờ từ đám đông
khi vận động viên trên sân ngừng di chuyển
và có sự im lặng của hoa phong lan
Sự im lặng của chiếc lọ đang rơi
trước khi nó đập xuống sàn nhà
sự im lặng của cái roi không quất vào đứa trẻ
Sự im lặng của cái chén và của nước trong đó
sự im lặng của mặt trăng
và sự im lặng của ban ngày cách xa tiếng gầm rú của mặt trời
Sự im lặng khi anh ôm em vào lòng
sự im lặng của cái cửa sổ phía trên chúng ta
sự im lặng khi em đứng lên và quay đi
Và đó là sự im lặng của buổi sáng
mà anh đã phá vỡ bằng cây bút của mình
sự im lặng chất chồng hằng đêm
giống như tuyết rơi trong bóng tối ngôi nhà
sự im lặng khi anh viết một từ
và sự im lặng này còn tệ hơn.
Nhật Bản
Hôm nay anh giết thời gian
Bằng cách đọc những bài thơ haiku
Từng từ từng từ một.
Anh cảm thấy như thể đang ăn
Những quả nho hoàn hảo nhỏ bé giống nhau
Từng quả, từng quả một.
Anh đi dọc nhà và đọc thơ.
Để cho những con chữ rơi xuống
Qua bầu không khí từng căn phòng.
Anh đọc thơ bên sự im lặng to lớn của chiếc đàn dương cầm.
Anh đọc trước bức tranh vẽ biển
Anh đánh nhịp lên cái giá sách trống.
Anh lắng nghe mình đọc thơ
Rồi anh đọc mà không lắng nghe
Sau đó anh lắng nghe mà không đọc.
Và khi con chó ngước nhìn anh
Anh quỳ lên sàn nhà
Đọc thầm vào từng cái tai dài màu trắng của nó.
Đó là câu thơ nói về cái chuông chùa
Với con bướm đêm ngủ trên mặt chuông
Và bất cứ khi nào đọc câu thơ ấy
Anh lại cảm thấy áp lực đau khổ của con bướm
Đè lên bề mặt cái chuông.
Khi anh đọc thơ cạnh cửa sổ
Cái chuông là thế giới
Còn anh là con bướm đậu ở đó.
Khi anh đọc bên cái gương
Anh là cái chuông nặng
Còn con bướm là thế giới với đôi cánh mỏng như giấy.
Sau đó, khi anh đọc câu thơ ấy cho em nghe trong bóng tối
Em là cái chuông
Và anh rung chuông em,
Rồi con bướm bay đi
Nó chuyển động như chiếc bản lề trong không khí trên
chiếc giường của chúng ta.
Đồ án
Tôi đổ một lớp muối lên mặt bàn
rồi dùng ngón tay vẽ một vòng tròn.
Đó là vòng đời
tôi nói một mình.
Đó là vòng tròn định mệnh
là vòng Bắc cực
là cung đường Kerry
là bông hồng trắng ở Tralec.
Tôi nói với các linh hồn của gia đình tôi,
với những người cha đã khuất,
với bà cô bị chết đuối,
với những người anh người chị chưa sinh,
với những đứa con chưa sinh.
Đó là mặt trời với những tia lấp lánh
và mặt trăng cay đắng.
Đó là vòng tròn tuyệt đối của hình học.
Tôi nói với vết nứt trên tường
với con chim bay ngang qua cửa sổ.
Đó là vòng tròn tôi vừa phát minh
quay quanh cuộc đời còn lại của tôi.
Tôi nói
khi chạm ngón tay mình vào lưỡi.
(SH301/03-14)
L.T.S: Cùng với Blok, Mai-a-cốp-xki, Ê-xê-nhin, Pa-xter-nak... Ma-ri-na Xvê-ta-ê-va (Marina Tsvetaeva 1892 - 1941) là một trong những nhà thơ Nga - Xô Viết lớn nhất của thế kỷ XX. Đường đời của bà là con đường đầy gian truân của một trí thức phải khắc phục nhiều lầm lỗi để đến với chân lý cách mạng. Một trái tim nồng cháy tình yêu Tổ quốc, dân tộc, nhưng Xvê-ta-ê-va mất gần 20 năm sau Cách mạng Tháng Mười sống lưu vong ở nước ngoài và trở về đất nước không được bao lâu thì mất.
OCTAVIO PAZ
(Nobel Văn Chương 1990)
Eduardas Megielaitis sinh năm 1919 (đã mất 6/6/1997), Chủ tịch Hội Nhà văn Litva (Liên Xô cũ) từ năm 1959, có tác phẩm được in từ 1934. Anh hùng lao động Liên Xô, Giải thưởng Lê-nin về văn học (năm 1961).
Lép Ôsanhi - Vlađimia Xôkôlôp
LGT: Charles Simic sinh năm 1938 tại Belgrade, Nam Tư. Năm 16 tuổi ông cùng với mẹ sang Mỹ sống với người cha ở New York City. Hiện ông là giáo sư khoa tiếng Anh ở trường Đại học New Hamsphire. Thơ Simic không dễ xếp loại. Một số bài thơ của ông có khuynh hướng siêu thực, siêu hình trong khi các bài khác là những chân dung hiện thực của bạo lực và tuyệt vọng.
Sam Hamill - Kevin Bowen - Martha Collins - Yusef Komunyakaa - Fred Marchant - Lady Borton - Nguyễn Bá Chung - Bruc Weil - Carolyn Forché - Larry Heinemann - George Evans
F.G. Lorca: Nhà thơ Tây Ban Nha, một trong những nhà thơ lớn của thế kỷ, một chiến sĩ chống phát xít đã bị kẻ thù ám hại năm 1938, khi ông vừa tròn 40 tuổi.
Bạn đọc chắc hãy còn nhớ vào tháng 2 năm 2011, Tạp chí Sông Hương đón nhận sự ghé thăm của đoàn Nhà văn Nga, trong đó có nhà thơ Terekhin Vadim.
FREDERICK TURNER
FREDERICK FEIRSTEIN
Jean Amrouche (1906-1962), người An-giê-ri, dạy học ở Tuy-ni-di, viết báo. Có nhiều thi phẩm in ra trước 1940. Chết trước khi An-giê-ri dành được độc lập, trong khi ông vẫn là một trong những người thành tâm và quyết liệt tìm giải pháp cho vấn đề thiết cốt này.
Từ nhiều thế kỷ nay, chúng ta đã quen với chuyện họa thơ Đường. Còn đây là một cuộc họa thơ bằng tiếng Tây Ban Nha. Và là một cuộc họa thơ độc đáo về Bác Hồ kính yêu của chúng ta.
Trong một lần thăm Ang-co, tôi cùng đi với chị Khô Chan dra, một cựu sinh viên văn khoa Đại học Phnôm Pênh. Chị ở trong một gia đình trí thức công chức dưới thời Si-ha-nuc nên hầu hết những người thân đều bị Pôn Pốt sát hại.
L.T.S: Ma-xê-đoan (Nam Tư) là xứ sở thơ mộng của phong cảnh đẹp, của du lịch, hội hè và của thơ, là một cái nôi văn hoá cổ xưa của nhân loại, nằm trên bán đảo Ban-căng, có một cái gì gợi nên một số nét tương đồng với Huế.
L.T.S: “Mẹ và bom nơ-tơ-rôn” là trường ca của nhà thơ Liên Xô nổi tiếng E.Ép-tu-sen-cô. Trường ca được trao giải thưởng Nhà nước Liên Xô năm 1984. Xin trân trọng giới thiệu một đoạn trích từ trường ca.
Nhà thơ nữ Ana Blandiana (sinh năm 1942) hiện là một trong những cây bút tiêu biểu của văn học hiện đại Ru-ma-ni.
Paul Henry là một trong những nhà thơ hàng đầu xứ Wales. Được cố thi sĩ Ursula Askham Fanthorpe diễn tả như “một nhà thơ của nhà thơ”, kết hợp “cảm xúc nhạc của những con chữ với sự tưởng tượng sáng tạo không ngừng nghỉ”, ông đến với thơ qua việc viết lời ca.
PI-MEN PAN-TREN-CƠNhững vật dụng của lính
LTS: Bruce Weigl nhà thơ Mỹ từng là cựu chiến binh tham chiến tại Quảng Trị những năm 1967-1968. Là người chứng kiến những sự thật kinh hoàng trong chiến tranh Việt Nam, ông tìm đến với thơ ca như một sự cứu rỗi linh hồn. Năm 1987, Bruce Weigl lần đầu tiên trở lại Việt Nam và “Tôi không bao giờ tưởng tượng được người Việt Nam lại tiếp đãi mình ân cần như thế”.
PABLO NERUDATrên đỉnh Machu Picchu(*)