PHAN THUẬN THẢO
Trong nhạc mục của Ca Huế hiện nay có một bài bản chính thống nhưng không mấy phổ biến, đó là bài Lộng điệp.
Tranh minh họa qua Kknews.cc - Ảnh: trithucvn.org
Bài Lộng điệp có nhịp 1[1], thuộc hơi Khách, tính chất tươi vui, trong sáng, giai điệu đơn giản, dễ nhớ, dễ thuộc, nhất là đoạn đầu giống với bài Cổ bản rất phổ biến của Ca Huế. Nếu bài Cổ bản rất được ưa chuộng và thường xuyên vang lên trong các chương trình biểu diễn Ca Huế thì bài Lộng điệp rất ít khi được trình diễn. Mới đây, khi nghiên cứu quyển nhạc phổ “Di tình nhã điệu” có niên đại khoảng cuối thế kỷ XIX ghi chép các bài bản của Ca Huế[2], chúng tôi tìm thấy một bản nhạc có những điểm gần gũi với bài Lộng điệp, đó là bài Kê Khang vốn từ lâu đã không có tên trong nhạc mục của Ca Huế. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ làm rõ mối liên hệ giữa hai bài bản này, qua đó chứng minh rằng bài Lộng điệp hiện nay có nguồn gốc từ bài Kê Khang trong lịch sử.
1. Từ bài Kê Khang trong nhạc phổ “Di tình nhã điệu”…
Kê Khang là một trong 43 bài bản được ghi chép trong nhạc phổ “Di tình nhã điệu” của tác giả khuyết danh, có niên đại khoảng cuối thế kỷ XIX, hiện được lưu trữ tại Viện Hán Nôm ở Hà Nội. Nhạc phổ này sử dụng kiểu ghi chữ nhạc cổ với hệ thống Hò - xự - xang - xê - cống, viết từ trên xuống dưới, từ phải sang trái, một số bài có kèm theo cả phần ca từ bằng chữ Hán (xem bản scan ở Phụ lục 1). Ở bài Kê Khang, mỗi câu lời đi liền với một câu nhạc tương ứng, và mỗi chữ nhạc ứng với một ca từ (trừ câu lời cuối bài bị chép thiếu). Từ đó, chúng tôi có thể chuyển biên bài nhạc này qua hệ thống solfège (xin xem Phụ lục 2, 3).
Trước hết, xin đề cập đến tiêu đề của bài bản. Kê Khang (223 - 262) là tên của một nhân vật có biệt tài cầm, kỳ, thi, họa trong lịch sử Trung Quốc, là một trong Trúc Lâm Thất hiền đời nhà Ngụy (220 - 264). Ông theo đạo Lão với tư tưởng lánh đời, nên đã từ quan, tìm về lối sống ẩn dật, ngao du sơn thủy, vui say với lời ca, điệu đàn, nhưng cuối cùng vẫn bị bức hại. Về âm nhạc, ông nổi tiếng tài chơi đàn, khúc nhạc Quảng lăng do ông sáng tác vẫn được người đời truyền tụng. “Truyện Kiều” của Nguyễn Du cũng từng mượn tài âm nhạc của Kê Khang để liên tưởng đến tài năng của nàng Kiều:
Kê Khang này khúc Quảng lăng
Một rằng lưu thủy, hai rằng hành vân
Tài năng của Kê Khang đã là nguồn cảm hứng cho nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật của hậu thế, trong đó có bản nhạc Kê Khang được ghi trong quyển “Di tình nhã điệu”.
Bài nhạc này có 12 nhịp, sử dụng hệ thống thang âm như sau:
Hò xự xang xê cống liu ú
Nếu giới hạn trong một quãng 8 thì ta có thang 5 âm:
Hò xự xang xê cống (liu)
Trong văn bản Hán Nôm có xuất hiện một lần chữ lịu, đây là chữ nhạc của dây buông thứ hai (dây tiếu[3]) của đàn nguyệt, có cao độ như chữ hò, tương đương với nốt do1.
Giai điệu bài Kê Khang có thể được chia thành 2 đoạn: đoạn 1 từ đầu bài đến đầu nhịp 6, đoạn 2 từ nhịp 6 đến hết bài. Lời ca diễn tả cảnh sắc tươi đẹp của mùa xuân với bướm vờn hoa, chim hót véo von trong gió… Từ nội dung lời ca đó có thể suy đoán bài bản này có tính chất vui tươi, trong sáng, cho nên có thể được diễn tấu ở hơi Khách, điệu Bắc.
2. … đến bài Lộng điệp ngày nay
Trong quá trình học Ca Huế với nghệ nhân Minh Mẫn (1925 - 2018) trong thập niên 1990, bản thân chúng tôi được bà truyền dạy bài Lộng điệp với lời ca bằng chữ Hán và chữ Việt. Nay xin ký âm lại bằng hệ thống solfège (xin xem Phụ lục 4).
Bài Lộng điệp sử dụng thang âm gồm các âm như sau:
sol la sib do re fa sol la sib do re fa
Nếu giới hạn trong một quãng 8 thì có thang 6 âm là:
Do re fa sol la sib (do)
Trong thang âm này, các bậc xự (re) và cống (la) rung. Theo quy luật, cách rung này thể hiện hơi Khách, điệu Bắc của âm nhạc Huế. Do vậy, bài Lộng điệp có tính chất vui tươi, trong sáng, thể hiện tinh thần sảng khoái, vui vẻ, yêu đời của con người trước cảnh sắc mùa xuân tươi đẹp.
Xem xét phần lời, có thể thấy lời Hán không phải câu nào cũng có nghĩa. Có lẽ lời ca này đã được truyền qua nhiều đời nên bị “tam sao thất bổn”. Dù vậy, vẫn có thể nhận ra nội dung tả cảnh mùa xuân với “Xuân sắc lai thiên địa” (mùa xuân đến với đất trời), “ba khai” (hoa nở)[4], “thiều quang” (ánh mặt trời)… Và nội dung ấy cũng tương tự như lời Việt, chẳng hạn như các câu ở đầu bài:
Lời Hán:
Xuân sắc lai thiên địa, toàn khiến ba khai,
Thiều quang hề, lộng hề thiều quang, điệp mê ba.
Phân thân, phân thân viên thượng,
Mùi tượng hoàn, tượng hoàn…
Lời Việt:
Hoa tốt tươi xinh đẹp hồng tía xuê xoang
Lại thêm càng dịu dàng mùi hương, giọt thu sương.
Ánh dương sáng lung linh dọi
Cỏ cùng hoa, cùng hoa…
Từ sự tương đồng về ngữ nghĩa trong hai phần lời Hán và lời Việt, có thể suy luận rằng phần lời Việt được phỏng dịch từ lời Hán. Lập luận này cũng phù hợp với dòng chảy lịch sử của Ca Huế vốn trước đây dùng lời Hán, về sau mới dần dần chuyển sang lời Việt. Điều đáng lưu ý ở đây là lời Hán được lưu truyền đến ngày nay có nhiều câu không đúng ngữ nghĩa, ngay cả nghệ nhân diễn xướng cũng không hiểu là gì. Chính vì thế mà lời Hán ngày nay ít được hát, dẫn đến việc nó sẽ bị lãng quên trong một tương lai không xa.
3. Mối liên hệ giữa Kê Khang và Lộng điệp
Xem xét hai bản nhạc Kê Khang và Lộng điệp, ta thấy chúng có những điểm tương đồng như sau:
- Tương đồng về chủ đề, nội dung, ca từ: Cả hai bài đều có chủ đề, nội dung miêu tả cảnh sắc tươi đẹp của mùa xuân với các hình ảnh hoa nở, chim hót, bướm vờn hoa, gió nhè nhẹ… rất đặc trưng của cảnh sắc mùa xuân. Đặc biệt, có nhiều đoạn ca từ giống nhau hầu như hoàn toàn giữa hai bài:
Ví dụ:
Bài Kê Khang:
Xuân sắc lai thiên địa, cánh hoa khai
Thiều quang, thiều quang hề, Đồng thiều quang, Điệp hoa khai
Tiến thân giang thượng
Mỗi tương hoan
Bài Lộng điệp:
Xuân sắc lai thiên địa, toàn khiến ba khai,
Thiều quang hề, lộng hề thiều quang, điệp mê ba.
Phân thân, phân thân viên thượng,
Mùi tượng hoàn, tượng hoàn…
So sánh đoạn lời trên đây của hai bài, có thể thấy bài Lộng điệp là một phiên bản (sai) của bài Kê Khang. Điều này cũng dễ hiểu bởi hiện tượng “tam sao thất bổn” vẫn thường diễn ra khi bài hát được truyền từ đời này sang đời khác, đặc biệt nếu người hát không rành chữ Hán, không hiểu nghĩa của ca từ thì rất dễ hát sai. Cũng như đoạn lời trên đây, đoạn tiếp theo cũng có hiện tượng tương tự:
Bài Kê Khang:
Xử hoa phong
Phiêu phiêu tranh phi, Xuân sắc thị giai kỳ
Điệp oanh ca, Thường thiện oanh ca…
Bài Lộng điệp:
Xứ ba phòng, xứ xứ ba phòng,
Phiêu phiêu trăng phi, xuân dứt chi giai mỹ
Điệp thanh ca, thượng thì thanh ca…
Sự tương đồng về nội dung chủ đề và ca từ như trên cho thấy rằng giữa hai bài Lộng điệp và Kê Khang có mối liên hệ rất chặt chẽ với nhau, thậm chí chúng có thể là những phiên bản của nhau.
- Tương đồng về thang âm:
Hai bài bản đều sử dụng thang âm đặc trưng của Huế. Bài Kê Khang dùng thang 5 âm:
Hò xự xang xê cống (liu)
Bài Lộng điệp cũng dùng thang âm như trên, nhưng có thêm nốt sib (phàn):
Hò xự xang xê cống phàn (liu)
Nếu suy luận bài Kê Khang dùng hơi Khách là chính xác thì giữa hai bài bản này còn có sự tương đồng về điệu thức. Điều đó cho thấy giữa chúng có mối liên hệ gần gũi về tính chất âm nhạc.
- Tương đồng về giai điệu:
Đường nét giai điệu trong bài Kê Khang rất giống với giai điệu bài Lộng điệp. Xin đơn cử các ví dụ sau:
Đoạn đầu bài Kê Khang (từ đầu bài đến nhịp 5)
Đoạn trên giống với đoạn đầu của bài Lộng điệp (từ đầu bài đến nhịp 7):
Hoặc ở đoạn 2:
Bài Kê Khang (từ nhịp 6 đến nhịp 11):
Đoạn nhạc trên giống với một đoạn trong bài Lộng điệp (từ nhịp 9 đến nhịp 16):
Như thế, hầu hết giai điệu của bài Kê Khang là tương đồng với bài Lộng điệp. Tuy trong đó có sự khác nhau về nhịp, nhưng tuyến giai điệu vẫn tương tự như nhau.
So sánh 2 bài nhạc, ta thấy bài Lộng điệp dài hơn: từ nhịp 17 đến cuối bài là đoạn không có trong bài Kê Khang. Điều này có thể do bài Kê Khang chỉ ngắn đến đó mà thôi, hoặc do bị chép thiếu, như kiểu chép thiếu một câu lời ở trong văn bản Hán Nôm này. Trong quá trình nghiên cứu toàn bộ 43 bài trong quyển nhạc phổ “Di tình nhã điệu”, chúng tôi thỉnh thoảng bắt gặp tác giả khuyết danh đã chép sai hoặc chép thiếu như thế.
Như vậy, giữa hai bài Kê Khang và Lộng điệp có những tương đồng về chủ đề, nội dung, thậm chí lời ca cũng giống nhau ở nhiều câu chữ, và đặc biệt là sự giống nhau ở tuyến giai điệu hầu như từ đầu đến cuối bài Kê Khang. Bên cạnh đó, vẫn có thể ghi nhận sự khác nhau về nhịp trong tuyến giai điệu, và bài Lộng điệp dài hơn một đoạn so với bài Kê Khang. Dù sao, mối liên quan chặt chẽ giữa hai bài bản này vẫn thể hiện rõ qua những gì vừa được phân tích trên đây.
*
Bản nhạc Kê Khang được ghi trong nhạc phổ “Di tình nhã điệu” có niên đại cách đây hơn 1 thế kỷ, và từ đó đến nay, nó không được nhắc đến trong các tài liệu lịch sử chúng tôi sưu tầm được lẫn trong tâm trí của nghệ nhân Ca Huế. Có thể cho rằng bài Kê Khang từng tồn tại trong nghệ thuật Ca Huế trong những thập niên cuối thế kỷ XIX, sau đó, không biết lý do gì mà nó trở thành bài Lộng điệp với lời ca bằng chữ Hán và rồi được phỏng dịch sang chữ Việt mà chúng tôi đã được học từ nghệ nhân Minh Mẫn trong thập niên 1990. Đến nay, lời ca chữ Hán rất ít người biết, còn lời tiếng Việt thì phổ biến hơn, phù hợp với dòng chảy biến đổi từ lời Hán sang lời Việt của nghệ thuật Ca Huế.
Như vậy, chúng ta có thể thấy tiền thân của bài Lộng điệp là bài Kê Khang có từ cuối thế kỷ XIX. Điều này góp thêm một chứng cứ về lịch sử của Ca Huế nói chung vốn lâu nay vẫn còn thiếu các nguồn tư liệu. Đồng thời, lời ca trong bài Kê Khang cũng có thể giúp chỉnh sửa lời Hán của bài Lộng điệp sao cho đúng ngữ nghĩa, giải quyết được vấn đề “tam sao thất bổn” do được truyền thừa qua nhiều thế hệ. Việc này sẽ được thực hiện trong một nghiên cứu tiếp theo.
*
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Bài Kê Khang trong nhạc phổ “Di tình nhã điệu”.
Phụ lục 2: Chuyển biên bài Kê Khang từ nguyên bản Hán Nôm trong nhạc phổ “Di tình nhã điệu” (Người chuyển biên: Phan Thuận Thảo; Phiên âm chữ Hán: Trần Đại Vinh).
Phụ lục 3: Dịch lời bài Kê Khang theo nguyên điệu (Người dịch: Trần Đại Vinh).
Sắc xuân đến đất trời
Hoa lại nở
Ánh xuân, ánh xuân chừ
Cùng ánh xuân
Bướm vờn hoa
Lướt thân trên sông lúc cùng vui
Trong gió hoa
Nhè nhẹ cùng bay
Sắc xuân đem giai kỳ
Bướm oanh ca
Oanh ca véo von
Tuyết hoa có nằm?
Phụ lục 4: Bản ký âm bài Lộng điệp
-------------------
Tài liệu tham khảo:
1. Tác giả khuyết danh (?), Di tình nhã điệu, sách nhạc phổ lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AB 446.
2. Nguyễn Việt Đức (chủ biên), Lâm Bảo Dần (2015), Giáo trình Đàn Ca Huế, Nxb. Đại học Huế, Huế.
3. Phan Thuận Thảo (2021), Chuyển biên, chú giải sách “Di tình nhã điệu” - Nhạc phổ Hán Nôm về bài bản Ca Huế, Đề tài NCKH cấp cơ sở, Học viện Âm nhạc Huế, Huế.
[1] Nhịp 1: trong 1 khuôn nhịp (chu kỳ nhịp) có 1 tiếng gõ phách.
[2] Phan Thuận Thảo (2021), Chuyển biên, chú giải sách “Di tình nhã điệu” - Nhạc phổ Hán Nôm về bài bản Ca Huế, Đề tài NCKH cấp cơ sở, Học viện Âm nhạc Huế, Huế.
[3] Dây tiếu: đọc trệch từ chữ tiểu (nhỏ), tức là dây nhỏ hơn trong 2 dây của đàn nguyệt.
[4] Vì kỵ húy tên bà Hồ Thị Hoa, vợ vua Minh Mạng, nên các chữ hoa đều đọc trại thành ba (như tên chợ Đông Hoa phải đổi thành Đông Ba).
DƯƠNG BÍCH HÀ
Âm nhạc dân gian (ÂNDG) xứ Huế (chúng tôi muốn mở rộng không gian địa lý của nó bao gồm một số huyện từ phía Nam Quảng Trị trở vào) là một thành phần của văn hóa dân gian Huế, nhưng cũng là một bộ phận của âm nhạc truyền thống dân tộc.
TRƯƠNG TRỌNG BÌNH
Nằm trong hệ thống Tiểu nhạc, mỗi bài trong “Mười bản ngự” đều có thể diễn tấu một cách độc lập nhưng khi liên kết và trình tấu liên tục “Mười bản ngự” trở thành một hệ thống bài bản liên hoàn thống nhất tựa như một bài bản lớn.
PHAN THUẬN THẢO
Ca Huế là thể loại âm nhạc thính phòng dành cho giới danh gia vọng tộc, tao nhân mặc khách của Huế xưa. Thời điểm ra đời của Ca Huế không được ghi trong sử sách, song nhiều học giả đã dựa trên một số chứng cứ văn hóa - xã hội để đoán định rằng nó bắt đầu hình thành dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu (1691 - 1725).
TÔN THẤT BÌNH
Nước Trung Quốc, về thời cổ "Vua Hán Vũ Đế (140 - 86 tr. Tây lịch) định lễ Giao tự để tế tiên địa tôn miếu và bách thần, mới đặt ra nhạc phủ.
DƯƠNG BÍCH HÀ
Xứ Huế là mảnh đất của thơ ca, là không gian của nhạc. Đặc điểm của Huế là sự dung hợp tự nhiên giữa dân dã với đô thị, cung đình; là ranh giới khó phân định giữa bác học với dân gian, giữa ngoại ô và nội thị...
PHAN THUẬN THẢO
“Di tình nhã điệu” là một văn bản Hán Nôm quý hiếm của âm nhạc cổ truyền Việt Nam. Tác giả và niên đại không được ghi chép trên tài liệu này nên chưa được xác định chính xác.
TRẦN HỮU PHÁP
Những nhạc sĩ sáng tác chúng tôi mỗi khi gặp nhau thường nói vui có lẽ chúng ta phải chuyển ngành, bởi vì những tác phẩm chúng ta tạo ra từ trái tim của mình cứ phải nằm trong ngăn kéo qua năm tháng.
PHAN THUẬN THẢO
Các khái niệm trống và mái là một biểu tượng của cặp phạm trù âm - dương đã được sử dụng trong âm nhạc truyền thống Huế. Cũng như cặp phạm trù âm - dương, trống và mái thể hiện hai mặt đực và cái, sáng và tối, cương và nhu… đối lập.
NGUYỄN CÔNG TÍCH
Được sự đồng ý về mặt chủ trương của Lãnh đạo tỉnh Thừa Thiên Huế, Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế phối hợp với Trung tâm Hỗ trợ sáng tác Văn học nghệ thuật (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), Hội Nhạc sĩ Việt Nam tổ chức Trại sáng tác Âm nhạc “Huế xưa và nay”, diễn ra từ ngày 08 đến 29/9/2018 với sự tham gia của 16 nhạc sĩ tên tuổi trong cả nước.
PHAN THUẬN THẢO
Quạnh quẽ màn loan, tay ôm đàn tình tang tích tịch
Cung réo rắt đau lòng riêng càng thêm chạnh, vì ai thêm bận
Ngồi trông bạn, kìa đâu bạn, mờ mịt trời mây én nhạn lìa đôi
Tình đau thương tình ôi…
VĨNH PHÚC
Dưới thời Khải Định (1916 - 1925), năm 1919 nhà vua cho lập một dàn nhạc kèn hơi theo kiểu Pháp để làm công tác đối ngoại, phục vụ cho các nghi lễ do triều đình tổ chức như các buổi đón khách, tiếp sứ…
Có tiếng trong giới mộ điệu âm nhạc từ thập niên 1990, song đến bây giờ nhạc sĩ (NS) Nguyễn Việt Hoàng mới đóng góp cho quê hương nhạc phẩm “Ai về cầu ngói Thanh Toàn” nhân Festival Huế 2018.
Trong chuyến thăm Việt Nam, ngày 4/3 sau khi đến Huế, Nhà vua và Hoàng hậu Nhật Bản đã đến thăm Đại Nội và xem biểu diễn Nhã nhạc cung đình Huế tại Nhà hát Duyệt Thị Đường.
PHAN THUẬN THẢO
Bước sang thế kỷ XX, tình hình văn hóa xã hội của nước ta có nhiều biến chuyển theo những ảnh hưởng của văn hóa phương Tây sau nhiều thập kỷ chịu sự đô hộ của Pháp.
TRỌNG BÌNH
Những vũ khúc cung đình Huế luôn mang đậm tính triết lý và thẩm mỹ phương Đông. Ở đó, sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa các động tác múa, sự di chuyển đội hình theo các tuyến, ngang, dọc, xéo cộng với việc tạo hình tượng theo hình khối làm nên nét đặc trưng riêng biệt.
Nhạc: NGUYỄN TRUNG DŨNG
Thơ: LÊ BÁ NGỮ
TÔN THẤT BÌNH
Ba Vũ là đoàn múa cung đình độc nhất còn lại ở Huế đến ngày nay. Đây là một đoàn có nguồn gốc lịch sử lâu đời; có nghệ thuật trình diễn độc đáo.
Nhạc: THANH SỬ
Thơ: TRẦN THỊ TỐ NGA
Nhạc: ĐỨC TÙNG
Thơ: HẠO NHIÊN