Từ ‘Kê khang’ đến ‘Lộng điệp’ - Câu chuyện về một bài bản Ca Huế

15:09 11/05/2022

PHAN THUẬN THẢO

Trong nhạc mục của Ca Huế hiện nay có một bài bản chính thống nhưng không mấy phổ biến, đó là bài Lộng điệp.

Tranh minh họa qua Kknews.cc - Ảnh: trithucvn.org

Bài Lộng điệp có nhịp 1[1], thuộc hơi Khách, tính chất tươi vui, trong sáng, giai điệu đơn giản, dễ nhớ, dễ thuộc, nhất là đoạn đầu giống với bài Cổ bản rất phổ biến của Ca Huế. Nếu bài Cổ bản rất được ưa chuộng và thường xuyên vang lên trong các chương trình biểu diễn Ca Huế thì bài Lộng điệp rất ít khi được trình diễn. Mới đây, khi nghiên cứu quyển nhạc phổ “Di tình nhã điệu” có niên đại khoảng cuối thế kỷ XIX ghi chép các bài bản của Ca Huế[2], chúng tôi tìm thấy một bản nhạc có những điểm gần gũi với bài Lộng điệp, đó là bài Kê Khang vốn từ lâu đã không có tên trong nhạc mục của Ca Huế. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ làm rõ mối liên hệ giữa hai bài bản này, qua đó chứng minh rằng bài Lộng điệp hiện nay có nguồn gốc từ bài Kê Khang trong lịch sử.

1. Từ bài Kê Khang trong nhạc phổ “Di tình nhã điệu”…

Kê Khang là một trong 43 bài bản được ghi chép trong nhạc phổ “Di tình nhã điệu” của tác giả khuyết danh, có niên đại khoảng cuối thế kỷ XIX, hiện được lưu trữ tại Viện Hán Nôm ở Hà Nội. Nhạc phổ này sử dụng kiểu ghi chữ nhạc cổ với hệ thống Hò - xự - xang - xê - cống, viết từ trên xuống dưới, từ phải sang trái, một số bài có kèm theo cả phần ca từ bằng chữ Hán (xem bản scan ở Phụ lục 1). Ở bài Kê Khang, mỗi câu lời đi liền với một câu nhạc tương ứng, và mỗi chữ nhạc ứng với một ca từ (trừ câu lời cuối bài bị chép thiếu). Từ đó, chúng tôi có thể chuyển biên bài nhạc này qua hệ thống solfège (xin xem Phụ lục 2, 3).

Trước hết, xin đề cập đến tiêu đề của bài bản. Kê Khang (223 - 262) là tên của một nhân vật có biệt tài cầm, kỳ, thi, họa trong lịch sử Trung Quốc, là một trong Trúc Lâm Thất hiền đời nhà Ngụy (220 - 264). Ông theo đạo Lão với tư tưởng lánh đời, nên đã từ quan, tìm về lối sống ẩn dật, ngao du sơn thủy, vui say với lời ca, điệu đàn, nhưng cuối cùng vẫn bị bức hại. Về âm nhạc, ông nổi tiếng tài chơi đàn, khúc nhạc Quảng lăng do ông sáng tác vẫn được người đời truyền tụng. “Truyện Kiều” của Nguyễn Du cũng từng mượn tài âm nhạc của Kê Khang để liên tưởng đến tài năng của nàng Kiều:

Kê Khang này khúc Quảng lăng
Một rằng lưu thủy, hai rằng hành vân

Tài năng của Kê Khang đã là nguồn cảm hứng cho nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật của hậu thế, trong đó có bản nhạc Kê Khang được ghi trong quyển “Di tình nhã điệu”.

Bài nhạc này có 12 nhịp, sử dụng hệ thống thang âm như sau:

         Hò   xự     xang    xê      cống      liu      ú

 

Nếu giới hạn trong một quãng 8 thì ta có thang 5 âm:

      

        Hò     xự    xang     xê      cống    (liu)

Trong văn bản Hán Nôm có xuất hiện một lần chữ lịu, đây là chữ nhạc của dây buông thứ hai (dây tiếu[3]) của đàn nguyệt, có cao độ như chữ , tương đương với nốt do1.

Giai điệu bài Kê Khang có thể được chia thành 2 đoạn: đoạn 1 từ đầu bài đến đầu nhịp 6, đoạn 2 từ nhịp 6 đến hết bài. Lời ca diễn tả cảnh sắc tươi đẹp của mùa xuân với bướm vờn hoa, chim hót véo von trong gió… Từ nội dung lời ca đó có thể suy đoán bài bản này có tính chất vui tươi, trong sáng, cho nên có thể được diễn tấu ở hơi Khách, điệu Bắc.

2. … đến bài Lộng điệp ngày nay

Trong quá trình học Ca Huế với nghệ nhân Minh Mẫn (1925 - 2018) trong thập niên 1990, bản thân chúng tôi được bà truyền dạy bài Lộng điệp với lời ca bằng chữ Hán và chữ Việt. Nay xin ký âm lại bằng hệ thống solfège (xin xem Phụ lục 4).

Bài Lộng điệp sử dụng thang âm gồm các âm như sau:

      sol    la     sib     do     re      fa    sol     la    sib    do     re      fa

Nếu giới hạn trong một quãng 8 thì có thang 6 âm là:

      Do     re       fa      sol      la     sib    (do)

Trong thang âm này, các bậc xự (re) và cống (la) rung. Theo quy luật, cách rung này thể hiện hơi Khách, điệu Bắc của âm nhạc Huế. Do vậy, bài Lộng điệp có tính chất vui tươi, trong sáng, thể hiện tinh thần sảng khoái, vui vẻ, yêu đời của con người trước cảnh sắc mùa xuân tươi đẹp.

Xem xét phần lời, có thể thấy lời Hán không phải câu nào cũng có nghĩa. Có lẽ lời ca này đã được truyền qua nhiều đời nên bị “tam sao thất bổn”. Dù vậy, vẫn có thể nhận ra nội dung tả cảnh mùa xuân với “Xuân sắc lai thiên địa” (mùa xuân đến với đất trời), “ba khai” (hoa nở)[4], “thiều quang” (ánh mặt trời)… Và nội dung ấy cũng tương tự như lời Việt, chẳng hạn như các câu ở đầu bài:

Lời Hán:

Xuân sắc lai thiên địa, toàn khiến ba khai,
Thiều quang hề, lộng hề thiều quang, điệp mê ba.
Phân thân, phân thân viên thượng,
Mùi tượng hoàn, tượng hoàn…

Lời Việt:

Hoa tốt tươi xinh đẹp hồng tía xuê xoang
Lại thêm càng dịu dàng mùi hương, giọt thu sương.
Ánh dương sáng lung linh dọi
Cỏ cùng hoa, cùng hoa…

Từ sự tương đồng về ngữ nghĩa trong hai phần lời Hán và lời Việt, có thể suy luận rằng phần lời Việt được phỏng dịch từ lời Hán. Lập luận này cũng phù hợp với dòng chảy lịch sử của Ca Huế vốn trước đây dùng lời Hán, về sau mới dần dần chuyển sang lời Việt. Điều đáng lưu ý ở đây là lời Hán được lưu truyền đến ngày nay có nhiều câu không đúng ngữ nghĩa, ngay cả nghệ nhân diễn xướng cũng không hiểu là gì. Chính vì thế mà lời Hán ngày nay ít được hát, dẫn đến việc nó sẽ bị lãng quên trong một tương lai không xa.

3. Mối liên hệ giữa Kê KhangLộng điệp

Xem xét hai bản nhạc Kê KhangLộng điệp, ta thấy chúng có những điểm tương đồng như sau:

- Tương đồng về chủ đề, nội dung, ca từ: Cả hai bài đều có chủ đề, nội dung miêu tả cảnh sắc tươi đẹp của mùa xuân với các hình ảnh hoa nở, chim hót, bướm vờn hoa, gió nhè nhẹ… rất đặc trưng của cảnh sắc mùa xuân. Đặc biệt, có nhiều đoạn ca từ giống nhau hầu như hoàn toàn giữa hai bài:

Ví dụ:

Bài Kê Khang:

Xuân sắc lai thiên địa, cánh hoa khai
Thiều quang, thiều quang hề, Đồng thiều quang, Điệp hoa khai
Tiến thân giang thượng
Mỗi tương hoan

Bài Lộng điệp:

Xuân sắc lai thiên địa, toàn khiến ba khai,
Thiều quang hề, lộng hề thiều quang, điệp mê ba.
Phân thân, phân thân viên thượng,
Mùi tượng hoàn, tượng hoàn…

So sánh đoạn lời trên đây của hai bài, có thể thấy bài Lộng điệp là một phiên bản (sai) của bài Kê Khang. Điều này cũng dễ hiểu bởi hiện tượng “tam sao thất bổn” vẫn thường diễn ra khi bài hát được truyền từ đời này sang đời khác, đặc biệt nếu người hát không rành chữ Hán, không hiểu nghĩa của ca từ thì rất dễ hát sai. Cũng như đoạn lời trên đây, đoạn tiếp theo cũng có hiện tượng tương tự:

Bài Kê Khang:

Xử hoa phong
Phiêu phiêu tranh phi, Xuân sắc thị giai kỳ
Điệp oanh ca, Thường thiện oanh ca…

Bài Lộng điệp:

Xứ ba phòng, xứ xứ ba phòng,
Phiêu phiêu trăng phi, xuân dứt chi giai mỹ
Điệp thanh ca, thượng thì thanh ca…

Sự tương đồng về nội dung chủ đề và ca từ như trên cho thấy rằng giữa hai bài Lộng điệpKê Khang có mối liên hệ rất chặt chẽ với nhau, thậm chí chúng có thể là những phiên bản của nhau.

- Tương đồng về thang âm:

Hai bài bản đều sử dụng thang âm đặc trưng của Huế. Bài Kê Khang dùng thang 5 âm:

       Hò     xự    xang     xê     cống   (liu)

Bài Lộng điệp cũng dùng thang âm như trên, nhưng có thêm nốt sib (phàn):

     Hò     xự     xang    xê    cống  phàn  (liu)

Nếu suy luận bài Kê Khang dùng hơi Khách là chính xác thì giữa hai bài bản này còn có sự tương đồng về điệu thức. Điều đó cho thấy giữa chúng có mối liên hệ gần gũi về tính chất âm nhạc.

- Tương đồng về giai điệu:

Đường nét giai điệu trong bài Kê Khang rất giống với giai điệu bài Lộng điệp. Xin đơn cử các ví dụ sau:

Đoạn đầu bài Kê Khang (từ đầu bài đến nhịp 5)


Đoạn trên giống với đoạn đầu của bài Lộng điệp (từ đầu bài đến nhịp 7):


Hoặc ở đoạn 2:

Bài Kê Khang (từ nhịp 6 đến nhịp 11):



Đoạn nhạc trên giống với một đoạn trong bài Lộng điệp (từ nhịp 9 đến nhịp 16):


Như thế, hầu hết giai điệu của bài Kê Khang là tương đồng với bài Lộng điệp. Tuy trong đó có sự khác nhau về nhịp, nhưng tuyến giai điệu vẫn tương tự như nhau.

So sánh 2 bài nhạc, ta thấy bài Lộng điệp dài hơn: từ nhịp 17 đến cuối bài là đoạn không có trong bài Kê Khang. Điều này có thể do bài Kê Khang chỉ ngắn đến đó mà thôi, hoặc do bị chép thiếu, như kiểu chép thiếu một câu lời ở trong văn bản Hán Nôm này. Trong quá trình nghiên cứu toàn bộ 43 bài trong quyển nhạc phổ “Di tình nhã điệu”, chúng tôi thỉnh thoảng bắt gặp tác giả khuyết danh đã chép sai hoặc chép thiếu như thế.

Như vậy, giữa hai bài Kê KhangLộng điệp có những tương đồng về chủ đề, nội dung, thậm chí lời ca cũng giống nhau ở nhiều câu chữ, và đặc biệt là sự giống nhau ở tuyến giai điệu hầu như từ đầu đến cuối bài Kê Khang. Bên cạnh đó, vẫn có thể ghi nhận sự khác nhau về nhịp trong tuyến giai điệu, và bài Lộng điệp dài hơn một đoạn so với bài Kê Khang. Dù sao, mối liên quan chặt chẽ giữa hai bài bản này vẫn thể hiện rõ qua những gì vừa được phân tích trên đây.

*

Bản nhạc Kê Khang được ghi trong nhạc phổ “Di tình nhã điệu” có niên đại cách đây hơn 1 thế kỷ, và từ đó đến nay, nó không được nhắc đến trong các tài liệu lịch sử chúng tôi sưu tầm được lẫn trong tâm trí của nghệ nhân Ca Huế. Có thể cho rằng bài Kê Khang từng tồn tại trong nghệ thuật Ca Huế trong những thập niên cuối thế kỷ XIX, sau đó, không biết lý do gì mà nó trở thành bài Lộng điệp với lời ca bằng chữ Hán và rồi được phỏng dịch sang chữ Việt mà chúng tôi đã được học từ nghệ nhân Minh Mẫn trong thập niên 1990. Đến nay, lời ca chữ Hán rất ít người biết, còn lời tiếng Việt thì phổ biến hơn, phù hợp với dòng chảy biến đổi từ lời Hán sang lời Việt của nghệ thuật Ca Huế.

Như vậy, chúng ta có thể thấy tiền thân của bài Lộng điệp là bài Kê Khang có từ cuối thế kỷ XIX. Điều này góp thêm một chứng cứ về lịch sử của Ca Huế nói chung vốn lâu nay vẫn còn thiếu các nguồn tư liệu. Đồng thời, lời ca trong bài Kê Khang cũng có thể giúp chỉnh sửa lời Hán của bài Lộng điệp sao cho đúng ngữ nghĩa, giải quyết được vấn đề “tam sao thất bổn” do được truyền thừa qua nhiều thế hệ. Việc này sẽ được thực hiện trong một nghiên cứu tiếp theo.

*

PHỤ LỤC

Phụ lục 1: Bài Kê Khang trong nhạc phổ “Di tình nhã điệu”.

Phụ lục 2: Chuyển biên bài Kê Khang từ nguyên bản Hán Nôm trong nhạc phổ “Di tình nhã điệu” (Người chuyển biên: Phan Thuận Thảo; Phiên âm chữ Hán: Trần Đại Vinh).

Phụ lục 3: Dịch lời bài Kê Khang theo nguyên điệu (Người dịch: Trần Đại Vinh).

Sắc xuân đến đất trời
Hoa lại nở
Ánh xuân, ánh xuân chừ
Cùng ánh xuân
Bướm vờn hoa
Lướt thân trên sông lúc cùng vui
Trong gió hoa
Nhè nhẹ cùng bay
Sắc xuân đem giai kỳ
Bướm oanh ca
Oanh ca véo von
Tuyết hoa có nằm?

Phụ lục 4: Bản ký âm bài Lộng điệp

P.T.T
(TCSH398/04-2022)


-------------------
Tài liệu tham khảo:

1. Tác giả khuyết danh (?), Di tình nhã điệu, sách nhạc phổ lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AB 446.

2. Nguyễn Việt Đức (chủ biên), Lâm Bảo Dần (2015), Giáo trình Đàn Ca Huế, Nxb. Đại học Huế, Huế.

3. Phan Thuận Thảo (2021), Chuyển biên, chú giải sách “Di tình nhã điệu” - Nhạc phổ Hán Nôm về bài bản Ca Huế, Đề tài NCKH cấp cơ sở, Học viện Âm nhạc Huế, Huế.

 

 


[1] Nhịp 1: trong 1 khuôn nhịp (chu kỳ nhịp) có 1 tiếng gõ phách.

[2] Phan Thuận Thảo (2021), Chuyển biên, chú giải sách “Di tình nhã điệu” - Nhạc phổ Hán Nôm về bài bản Ca Huế, Đề tài NCKH cấp cơ sở, Học viện Âm nhạc Huế, Huế.

[3] Dây tiếu: đọc trệch từ chữ tiểu (nhỏ), tức là dây nhỏ hơn trong 2 dây của đàn nguyệt.

[4] Vì kỵ húy tên bà Hồ Thị Hoa, vợ vua Minh Mạng, nên các chữ hoa đều đọc trại thành ba (như tên chợ Đông Hoa phải đổi thành Đông Ba).

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • VIỆT ĐỨCCâu trả lời đầu tiên vẫn thuộc về môi trường sinh hoạt âm nhạc. Hiện nay ở thành phố Hồ Chí Minh mỗi đêm có đến 50 tụ điểm ca nhạc hoạt động với cơn sốt ca sỹ leo thang đến chóng mặt.

  • Dương Bích HàCũng như các loại hình nghệ thuật khác, nền âm nhạc cổ truyền luôn tồn tại hai dòng: âm nhạc bác học và âm nhạc dân gian.Ở Huế, trên một thế kỷ là kinh đô của triều đại phong kiến Việt Nam, nên đặc biệt, tính chất này được bộc lộ rất rõ và triệt để, là nơi phân chia rạch ròi nhất các giai tầng trong xã hội, trong văn hóa nghệ thuật.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNNgày xưa, xã hội Việt Nam thực hiện nguyên tắc “phụ truyền tử kế” (cha truyền con nối), cho nên ông nội tôi - cụ Nguyễn Đắc Tiếu (sinh 1879), người làng Dã Lê chánh, xã Thủy Vân, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên, lúc mới lên mười tuổi, đã được cố tôi (lính trong đội Nhã nhạc Nam triều) đem vào Đại nội học Nhạc cung đình (Musique de Cour).

  • PHAN THUẬN THẢONhã nhạc là loại hình âm nhạc chính thống được sử dụng trong các cuộc tế, lễ của các triều đình quân chủ ở Việt Nam và một số nước khu vực Đông Á. Trong các cuộc triều hội, cúng tế, âm nhạc luôn theo suốt quy trình của buổi lễ, từ lúc mở đầu cho đến hồi kết thúc. Nó tham gia vào từng tiết lễ, là một thành tố không thể thiếu của cuộc lễ, đồng thời, là phương tiện giúp con người giao tiếp với thế giới thần linh. Loại hình âm nhạc này được các triều đại quân chủ hết sức coi trọng, được phát triển thành một thứ quốc nhạc và là một trong những biểu tượng cho sức mạnh của vương quyền và sự vững bền của triều đại.

  • THÂN VĂN1. Phương thức liên kết về bài bản.Đặc điểm chung nhất của hệ thống bài bản hòa tấu nhạc cung đình thường là ngắn gọn, gắn liền và phù hợp với các ca chương trong mỗi nghi thức tế lễ. Những nghi thức này được tiến hành theo một trật tự trang trọng và nghiêm ngặt, nên mỗi bài bản ca chương và âm nhạc buộc phải trình tấu đúng với thời gian cho phép của từng nghi thức. Những bài bản này đương nhiên hoàn toàn độc lập về nội dung, nhưng do nằm trong một trật tự trình tấu nối tiếp liên tục, nên ngẫu nhiên đã hình thành các thể loại liên hoàn khúc khác nhau. Trong đó, độ dài, ngắn của mỗi liên hoàn khúc, tuỳ thuộc vào tính chất quan trọng của cuộc lễ, tuỳ thuộc vào số lượt nghi thức và số ca chương mà cuộc lễ quy định.

  • YAMAGUTI OSAMUTháng Giêng năm 1994, trong lúc đang còn ngất ngây hương vị Tết, thì đột nhiên điện thoại và fax từ Paris đến tới tấp. Đó là vì UNESCO đã nhận lời yêu cầu của chính phủ Việt Nam để mở một Hội nghị Quốc tế thảo luận về vấn đề nên làm gì và cái gì có thể làm được để bảo tồn và phát huy tài sản văn hoá vô hình của Việt Nam, vì vậy họ muốn mời tôi tham gia hội nghị và đưa ra đề nghị cụ thể. Ông Tokumaru Yosihiko (giáo sư của Đại học Nữ Ochanomizu, lúc đó còn là Trưởng khoa của Khoa Văn hoá- Giáo dục) cũng nhận được lời mời như vậy, nên tôi đã liên lạc với ông và cả hai quyết định nhận lời mời này.

  • VIỆT HÙNGCuộc toạ đàm với chủ đề Sự cần thiết phải thành lập nhạc viện ở Huế vừa diễn ra vào ngày 10/3/2004. Đây là một trong những hoạt động nằm trong khuôn khổ của Trại sáng tác khí nhạc dân tộc và phê bình lý luận âm nhạc, do Chi hội Nhạc sĩ Việt Nam Thừa Thiên Huế phối hợp với Trường Đại học Nghệ thuật Huế tổ chức từ 9/3 đến 17/3/2004.

  • THÂN VĂNSau hơn 2 tháng phát động và 9 ngày chính thức dự trại (từ ngày 09 đến 17/3/2004), với 14 tác phẩm khí nhạc dân tộc và 5 tác phẩm lý luận phê bình âm nhạc của 17 nhạc sĩ có mặt tham dự trại. Lễ bế mạc chiều ngày 17/3/2004 Trại sáng tác khí nhạc dân tộc & lý luận phê bình âm nhạc tại Huế đã gây được ấn tượng tốt đẹp và những tín hiệu đáng mừng trong lòng nhân dân Cố Đô. Điều đáng nói là các nhạc sĩ của Hà Nội, Huế và TP.Hồ Chí Minh đã gặp nhau từ một ý tưởng sáng tạo chủ đạo là nhằm tôn vinh và phát huy các giá trị của di sản văn hoá phi vật thể và truyền khẩu ở Huế, góp phần định hướng cho mô hình và mục tiêu đào tạo của Nhạc viện Huế trong tương lai.

  • TRẦN VĂN KHÊNhạc Cung đình là một bộ môn nhạc truyền thống Việt Nam dùng trong Cung đình. Nhưng người sáng tạo và biểu diễn Nhạc Cung đình hầu hết là những nhạc sĩ, nghệ sĩ từ trong dân gian, có tay nghề cao, được sung vào Cung để phụng sự cho Triều đình. Nhạc Cung đình Huế là một bộ môn âm nhạc truyền thống Việt Nam rất đặc biệt và có một giá trị lịch sử, nghệ thuật rất cao.

  • THÁI CÔNG NGUYÊNMột nhà văn nước ngoài khi đến thăm Huế đã nói: “Huế là một bảo tàng kỳ lạ chứa đựng trong lòng mình những kho tàng vô giá, những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần Việt Nam”. Đúng vậy, bên cạnh kho tàng di sản văn hóa kiến trúc đồ sộ có giá trị tầm vóc quốc tế, Huế còn là một tụ điểm di sản văn hóa tinh thần phong phú, một vùng văn hóa Phú Xuân đặc sắc “Huế đẹp và thơ” nổi tiếng.

  • PHÙNG PHUNgày 07 tháng 11 năm 2003, ông Koichiro Matsuura, Tổng Giám đốc UNESCO đã chính thức công bố trong một buổi lễ long trọng nhân kỳ họp toàn thể lần thứ 32 của Ðại hội đồng UNESCO tại Paris: UNESCO đã ghi tên 28 Kiệt tác vào Danh mục Kiệt tác Di sản Văn hóa Phi vật thể và Truyền khẩu của Nhân loại.

  • LTS: Đại hội khoá II (nhiệm kỳ 2003 - 2008) của Chi hội Nhạc sỹ Việt Nam Thừa Thiên Huế vừa diễn ra vào trung tuần tháng 9. Nhạc sỹ Hồng Đăng, Phó Tổng thư ký Hội Nhạc sỹ Việt Nam, thay mặt cho BCH Hội Nhạc sỹ Việt Nam vào tham gia chỉ đạo Đại hội. Tại Đại hội, nhiều tham luận, ý kiến phát biểu của các nhạc sỹ đã thể hiện được sự trăn trở về thực trạng và hướng phát triển của nghệ thuật âm nhạc đương đại Huế. Sông Hương xin trích đăng một số ý kiến đã trình bày tại đại hội.

  • LÂM TÔ LỘCĐại tá - nhạc sĩ Đức Tùng, sinh năm 1926 tại Huế đẹp và thơ, đã mãi mãi xa quê: Ông mất ngày 25/01/2003. Ông viết ca khúc từ trước Cách mạng tháng Tám như Kỷ niệm ngày hè, Bên trời xa, Dòng Dịch thủy, Dưới ánh trăng mơ. Ông đã từng biểu diễn ca nhạc tại nhà hát Accueil, là cây Accordéon cầm chịch của ban nhạc gia đình ở phố Hàng Bè.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ Năm nay (2003), nhạc sĩ Trần Hữu Pháp (NSTHP) “mới” tròn 70 tuổi, nhưng dễ đã mấy chục năm, sau khi nhạc sĩ Trần Hoàn rời Cố đô ra Hà Nội nhận các trọng trách, NSTHP nghiễm nhiên ngồi “chiếu trên”, là “già làng” của giới âm nhạc Thừa Thiên Huế. Kể cũng phải; từ bốn mươi năm trước, khi hàng triệu thiếu nhi miền Bắc đội mũ rơm dắt lá nguỵ trang đến trường, miệng líu lo ca bài hát ông vừa sáng tác “Tiếp đạn nào / Tiếp đạn chuyền tay trên chiến hào / Cho chú dân quân bắn nhào phản lực...” thì không ít các nhạc sĩ nổi danh bây giờ có lẽ còn... bú mẹ! Vậy mà trước mắt tôi (và chắc là với không ít người nữa) - nói ông anh đừng giận nhé - vị nhạc sĩ lão làng này lại rất...trẻ con!

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO...Người ta thường nhắc tới Thái Quý như nhắc tới một con người giàu tình cảm, dễ khóc, dễ cười, dễ nóng giận và cũng rất vị tha. Nói đến khuyết điểm của mình trong cuộc họp, anh khóc đã đành, nhưng khi chỉ trích khuyết điểm của đồng đội, anh cũng khóc...

  • NGUYỄN THANH TÚNăm ngoái, tôi tình cờ gặp nhạc sĩ Thái Quý khi ông đang bận rộn chỉ đạo "đoàn thành phố Huế" trước giờ ra sân khấu tham gia hội diễn ca múa nhạc công - nông - binh - trí thức do tỉnh Thừa Thiên Huế tổ chức tại nhà hát Trung tâm Văn hoá.

  • VĨNH PHÚCNếu kinh đô Thăng Long xưa từ trong cung phủ đã có một lối hát cửa quyền phát tán thành một dòng dân gian chuyên nghiệp là hát Ả đào và vẫn thịnh đạt dưới thời vua Lê chúa Trịnh, thì kinh đô Phú Xuân sau này, hoặc là đã từ trong dinh phủ của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong phát tán thành một lối gọi là Ca Huế (gồm cả ca và đàn). Vậy cũng có thể gọi Ca Huế là một lối hát Ả đào của người Huế, một lối chơi của các ông hoàng bà chúa xét trên quan điểm tiếp biến trong tiến trình của một lối hát truyền thống và tiến trình lịch sử từ Thăng Long đến Phú Xuân-Huế.

  • VĂN THU BÍCHTừ bao đời nay, tình yêu Huế vẫn mãi chìm sâu trong lòng những người con xứ Huế, dù đang sống trên đất Huế hoặc đã biền biệt xa xứ và Huế mộng mơ cũng len nhẹ vào hồn du khách khi đến thăm vùng đất thần kinh này.

  • TRẦN NGỌC LINHBạn còn thương bạn biết gửi sầu về nơi mô?Trước khi tôi vào Huế, chị tôi dặn: “Vào muốn gặp bà Minh Mẫn cứ đến đường Nhật Lệ mà hỏi”. Theo cách nhớ đường của một người viễn khách từ xa đến thì đến phố đó cứ thấy đầu ngõ nào có một giàn hoa tử đằng với những dây hoa buông thõng chấm xuống nền đất vỉa hè thì đó chính là lối rẽ vào ngõ nhà danh ca Minh Mẫn.

  • TRẦN KIÊM ĐOÀNGọi tên hoa súng: LỤC HÀGọi thôn LIỄU HẠ: quê nhà bên sôngGọi TRẦN KIÊM: họ sắc... khôngGọi HÀ THANH: tiếng hát dòng Hương Giang