TRẦN HỮU PHÁP
Những nhạc sĩ sáng tác chúng tôi mỗi khi gặp nhau thường nói vui có lẽ chúng ta phải chuyển ngành, bởi vì những tác phẩm chúng ta tạo ra từ trái tim của mình cứ phải nằm trong ngăn kéo qua năm tháng.
Cố nhạc sĩ Trần Hữu Pháp - Ảnh: internet
Trong lúc đó, âm nhạc "hải ngoại" thì cứ tràn vào bởi đang còn không ít những thính giả rẻ tiền của nó. Nhưng rồi chúng tôi lại tin rằng thời gian trôi đi và những tác phẩm chân chính sẽ tồn tại với mọi người chân chính yêu âm nhạc.
Xin nói một chút về cái tôi để "tự bạch" về những gì chủ yếu mình đang làm. Cũng xin được nhắc lại đôi nét đã làm để thấy cái cần làm, sẽ làm cho chặng đường tới.
Âm nhạc của tôi bắt nguồn từ những giai điệu và ngôn ngữ của tiếng ru quê hương từ thuở còn nằm trong nôi cho đến bây giờ. Tôi đã đưa vào những tác phẩm của mình bóng dáng quê hương. Tôi đi theo con đường tình ca dân tộc. Một ca khúc nhỏ viết cho các em thiếu nhi, tôi cũng ngập mình trong chan chứa dân gian. Một loài hoa, một con ong, một đàn kiến... đều đem đến cho các em những tình cảm cao đẹp, những liên tưởng ngộ nghĩnh, mới mẻ, bất ngờ. Các em trở thành trang sách, trở thành bài ca trước khi trở thành con người công dân hữu ích trong xã hội.
Tôi đã sống ở Huế nhiều năm, lấy vợ Huế, hát bài ca Huế, và tình yêu biến tôi thành dân Huế lúc nào không hay...
Mùa hè năm 1984, có dịp tôi đi thuyền cùng bạn bè ngược dòng Danuble trong một cuộc gặp gỡ các nhạc sĩ nhiều nước tại đó. Sóng Danuble cứ bập bềnh và sôi động. Tôi làm sao mà không nhớ đến sông Hương cho được. Sông Hương thì yên ả lững lờ. Ai càng đi xa càng thấy nhớ. Tôi đã viết bài "Dòng sông ai đã đặt tên" trong một nỗi niềm nhớ nhung lúc đi xa. Dòng sông thì cứ êm đềm như vậy. Nhạc sĩ Trần Kiết Tường quê Nam Bộ, thời thơ ấu từng ở Huế, anh nói rằng sông Hương không chỉ yên ả, dưới dòng sông cuồn cuộn không ngừng đấy !
Cho nên, công việc của người viết nhạc là phải khổ công đi tìm giai điệu và ngữ ngôn mới. Với tôi, tôi tìm trong cái cũ của cha ông để lại.
Mới đây, tôi về thăm lại cầu ngói Thanh Toàn trong dịp công trình được ngành Văn hóa tu sửa và được Nhà nước xếp vào di tích văn hóa quốc gia. Một ngày hội hè, một ngày màu sắc đã diễn ra tại đây. Cũng một ngày, vui chơi, một ngày say tỉnh đã diễn ra tại đây. Một người đàn bà, có lẽ trong cơn ngây ngất, đã nằm ngủ ngay trên cầu. Mọi người thấy lạ, xúm đến và gọi: "Bà ơi, bà về nhà đi chứ, ai lại nằm cầu như thế này, coi sao tiện?" Cụ bà ngồi dậy, mơ màng rồi lại nằm xuống như không có chuyện gì xẩy ra. Và bỗng nhiên, hát nói : "Em ngồi đây... em nằm đây... Em đợi anh trên chiếc cầu này...".
Tôi thấy lạnh buốt trong người như một tia men truyền qua, và thế là bài "Người về cầu ngói Thanh Toàn" đang ấp ủ lâu nay bỗng được khơi nguồn, tuôn chảy...
Tôi đang dồn gần như toàn bộ sức lực tinh thần và thể chất (mặc dù đang thời kỳ đau tim dữ dội) để có thể sớm hoàn thành một "thanh xướng kịch dân gian" mang chủ đề "Chuyện tình của nàng Huyền Trân", dựa trên các chất liệu dân ca Huế. Công chúa Huyền Trân ra đi "lấy chồng" trong bước chân đưa tiễn của chính người yêu là Trần Khắc Chung năm 1306. Nợ nước, lệnh vua, tục làng, gia phong, nghĩa chung, tình riêng... nỗi buồn của nàng Huyền Trân có lẽ còn day dứt trái tim nhiều thế hệ người đời... Không biết tôi có làm nổi ước mơ của mình hay không, có để lại được chút gì về một chuyện tình hiếm có như chuyện Huyền Trân hay không, nhưng cứ "dám nghĩ dám làm" cái đã !
Những năm còn chiến tranh, tôi đã có dịp cùng các nhạc sĩ như giáo sư tiến sĩ Tô Ngọc Thanh, nhạc sĩ Vĩnh Long, Hồng Thao, Lê Toàn Hùng, Ngọc Oánh, Lê Quang Nghệ, mấy anh em tâm đắc một thuở sưu tầm dân ca khắp các vùng từ Mèo Thái đến Tây Nguyên, Chàm, Khơ Me Nam Bộ... Nhiều tập dân ca đã ra đời từ đó chắc hẳn còn để lại đến nay. Giờ đây, việc sưu tầm vốn âm nhạc dân gian gần như bị lãng quên, mà có, thì không mấy ai hăng hái say sưa như thuở ấy. Tôi mong muốn và đang cùng các nghệ nhân trên quê hương giàu chất thơ của Thừa Thiên Huế tìm kiếm và ghi lại những bài bản, từ âm nhạc cung đình đến những điệu hò, điệu lý... Đây là một việc làm hoàn toàn không dễ dàng và đòi hỏi thời gian cùng các phương tiện khả dĩ, ngoại trừ tấm lòng và niềm say mê nghề nghiệp. Mong sao được ngành Văn hóa tạo điều kiện ủng hộ chúng tôi trong việc này.
Tôi luôn tự nhủ rằng hãy hành động, dù sáng tác hay sưu tầm, nhịp đập trái tim mình hãy hòa với nhịp đi lên của đất nước quê hương...
Mùa xuân, 1992
T.H.P
(TCSH48/03&4-1992)
DƯƠNG BÍCH HÀ
Âm nhạc dân gian (ÂNDG) xứ Huế (chúng tôi muốn mở rộng không gian địa lý của nó bao gồm một số huyện từ phía Nam Quảng Trị trở vào) là một thành phần của văn hóa dân gian Huế, nhưng cũng là một bộ phận của âm nhạc truyền thống dân tộc.
TRƯƠNG TRỌNG BÌNH
Nằm trong hệ thống Tiểu nhạc, mỗi bài trong “Mười bản ngự” đều có thể diễn tấu một cách độc lập nhưng khi liên kết và trình tấu liên tục “Mười bản ngự” trở thành một hệ thống bài bản liên hoàn thống nhất tựa như một bài bản lớn.
PHAN THUẬN THẢO
Ca Huế là thể loại âm nhạc thính phòng dành cho giới danh gia vọng tộc, tao nhân mặc khách của Huế xưa. Thời điểm ra đời của Ca Huế không được ghi trong sử sách, song nhiều học giả đã dựa trên một số chứng cứ văn hóa - xã hội để đoán định rằng nó bắt đầu hình thành dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu (1691 - 1725).
PHAN THUẬN THẢO
Trong nhạc mục của Ca Huế hiện nay có một bài bản chính thống nhưng không mấy phổ biến, đó là bài Lộng điệp.
TÔN THẤT BÌNH
Nước Trung Quốc, về thời cổ "Vua Hán Vũ Đế (140 - 86 tr. Tây lịch) định lễ Giao tự để tế tiên địa tôn miếu và bách thần, mới đặt ra nhạc phủ.
DƯƠNG BÍCH HÀ
Xứ Huế là mảnh đất của thơ ca, là không gian của nhạc. Đặc điểm của Huế là sự dung hợp tự nhiên giữa dân dã với đô thị, cung đình; là ranh giới khó phân định giữa bác học với dân gian, giữa ngoại ô và nội thị...
PHAN THUẬN THẢO
“Di tình nhã điệu” là một văn bản Hán Nôm quý hiếm của âm nhạc cổ truyền Việt Nam. Tác giả và niên đại không được ghi chép trên tài liệu này nên chưa được xác định chính xác.
PHAN THUẬN THẢO
Các khái niệm trống và mái là một biểu tượng của cặp phạm trù âm - dương đã được sử dụng trong âm nhạc truyền thống Huế. Cũng như cặp phạm trù âm - dương, trống và mái thể hiện hai mặt đực và cái, sáng và tối, cương và nhu… đối lập.
NGUYỄN CÔNG TÍCH
Được sự đồng ý về mặt chủ trương của Lãnh đạo tỉnh Thừa Thiên Huế, Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế phối hợp với Trung tâm Hỗ trợ sáng tác Văn học nghệ thuật (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), Hội Nhạc sĩ Việt Nam tổ chức Trại sáng tác Âm nhạc “Huế xưa và nay”, diễn ra từ ngày 08 đến 29/9/2018 với sự tham gia của 16 nhạc sĩ tên tuổi trong cả nước.
PHAN THUẬN THẢO
Quạnh quẽ màn loan, tay ôm đàn tình tang tích tịch
Cung réo rắt đau lòng riêng càng thêm chạnh, vì ai thêm bận
Ngồi trông bạn, kìa đâu bạn, mờ mịt trời mây én nhạn lìa đôi
Tình đau thương tình ôi…
VĨNH PHÚC
Dưới thời Khải Định (1916 - 1925), năm 1919 nhà vua cho lập một dàn nhạc kèn hơi theo kiểu Pháp để làm công tác đối ngoại, phục vụ cho các nghi lễ do triều đình tổ chức như các buổi đón khách, tiếp sứ…
Có tiếng trong giới mộ điệu âm nhạc từ thập niên 1990, song đến bây giờ nhạc sĩ (NS) Nguyễn Việt Hoàng mới đóng góp cho quê hương nhạc phẩm “Ai về cầu ngói Thanh Toàn” nhân Festival Huế 2018.
Trong chuyến thăm Việt Nam, ngày 4/3 sau khi đến Huế, Nhà vua và Hoàng hậu Nhật Bản đã đến thăm Đại Nội và xem biểu diễn Nhã nhạc cung đình Huế tại Nhà hát Duyệt Thị Đường.
PHAN THUẬN THẢO
Bước sang thế kỷ XX, tình hình văn hóa xã hội của nước ta có nhiều biến chuyển theo những ảnh hưởng của văn hóa phương Tây sau nhiều thập kỷ chịu sự đô hộ của Pháp.
TRỌNG BÌNH
Những vũ khúc cung đình Huế luôn mang đậm tính triết lý và thẩm mỹ phương Đông. Ở đó, sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa các động tác múa, sự di chuyển đội hình theo các tuyến, ngang, dọc, xéo cộng với việc tạo hình tượng theo hình khối làm nên nét đặc trưng riêng biệt.
Nhạc: NGUYỄN TRUNG DŨNG
Thơ: LÊ BÁ NGỮ
TÔN THẤT BÌNH
Ba Vũ là đoàn múa cung đình độc nhất còn lại ở Huế đến ngày nay. Đây là một đoàn có nguồn gốc lịch sử lâu đời; có nghệ thuật trình diễn độc đáo.
Nhạc: THANH SỬ
Thơ: TRẦN THỊ TỐ NGA
Nhạc: ĐỨC TÙNG
Thơ: HẠO NHIÊN