VĨNH PHÚC
Dưới thời Khải Định (1916 - 1925), năm 1919 nhà vua cho lập một dàn nhạc kèn hơi theo kiểu Pháp để làm công tác đối ngoại, phục vụ cho các nghi lễ do triều đình tổ chức như các buổi đón khách, tiếp sứ…
Ảnh: internet
Dàn nhạc thường cử hai bài quốc ca Pháp “La Marseillaise” do Rouget de Lisle sáng tác và quốc ca Nam triều… Dàn nhạc kèn hơi này gồm có 35 nhạc công vừa sử dụng các loại kèn của phương Tây và cả nhạc cụ dân tộc do ông Trần Văn Liêu làm nhạc trưởng.1
Việc quốc ca Nam triều từ thời vua Khải Định đã được nhiều tài liệu cho là một bài bản đại nhạc rất phổ biến thường được tấu lên khi vua đăng đàn và xa giá hồi cung trong lễ tế Giao, tế Xã tắc… ở cung đình, hoặc ban nhạc lễ ngoài dân gian, là bài Đăng đàn cung. Bài bản Đăng đàn cung này được nhiều tài liệu cho là quốc ca triều Nguyễn với lời ca của Ưng Thiều là:
“Dậy, dậy, dậy mở mắt xem toàn châu
Đèn khai hóa rạng khắp hoàn cầu
Ngọn đường thông thương ngàn dặm, xe tàu điện, tàu nước, tàu bay
Nghề khôn khéo chạy khắp phương trời
Càng ngày văn minh càng rộng, tranh cạnh lợi quyền”…
Điệu hát truyền thống này từ trước đã được nhiều người soạn lời mới. Lời mới trên là của Nguyễn Trung Phán soạn và in trong cuốn “Dạy hát tiếng Nam” cho học sinh học hát với tên là “Có học mới hay”, do nhà in Tiếng Dân in lần thứ hai tại Huế, năm 1929.
Hoặc bài “Hồng Lạc ca” của Ưng Bình Thúc Giạ:
“Dân Hồng Lạc mình đây đã bốn ngàn năm
Gây non nước từ trước lâu dài
Ngọn cờ Hoa Lư ngời rạng
Đinh, Lê rồi lại Lý, Trần, Lê”…
![]() |
Nguồn: http://gallica.bnf.fr/ark:/12148/ bpt6k5848625d/f30.image |
Đã có nhiều tác giả vẫn nhầm là quốc ca triều Nguyễn và đã trích dẫn vào các tài liệu, khảo cứu của mình.2 Trẻ con ngày xưa cũng thường hát chơi trên điệu hát này là: “Chè xôi chuối để cúng ông bà, thịt gà rô ti, thịt vịt, tôm, cua, đậu xào” v.v và v.v. Vì vậy, đã gây ra sự nhầm lẫn, lẫn lộn kéo dài, xác định bài Đăng đàn cung truyền thống là quốc thiều Việt Nam đã có từ thời vua Khải Định!
Bài quốc ca An nam chính thức có tên là “Đăng đàn” - (Hymne National Annamite) vào thời Bảo Đại (1925 - 1945), được xuất bản trong tập sách giới thiệu quốc kỳ, quốc huy và quốc ca của Pháp và ba nước Đông Dương là “Hymnes & pavillons D’Indochine” in tại nhà in Viễn Đông của Pháp tại Hà Nội tháng 12 năm 1941. Bài này phỏng soạn theo khuôn mẫu bài “Đăng đàn đơn” trong hệ thống bài bản đại nhạc, kí âm theo phong cách âm nhạc phương Tây, nhưng không ghi tên tác giả chuyển soạn và ký âm. Có thể bài này mới do Nguyễn Hữu Hối ghi nhạc, Trần Như Tú phối âm, phối khí và sau đó được Nguyễn Phúc Ưng Thiều soạn lời cho học sinh hát để đón vua Bảo Đại từ Pháp về năm 1932. Vì trong bản in, trang tổng phổ ghi là “Đăng đàn”, phần dàn nhạc được rút lại cho đàn piano với phần đệm của dàn nhạc hoàn toàn theo phong cách hòa âm chiều dọc của âm nhạc châu Âu; bài hát được soạn ở giọng Đô thứ tự nhiên. Ở trang lời ca có ghi chú: “Văn bản sáng tác cho học sinh được hát trên (trong ngày) Vạn Thọ”.
![]() |
Bài quốc ca Việt Nam in trong “Hymnes & Pavillons D’Indochine”, D’Extrême Orient, Hà Nội, 1941. Nguồn: Thư viện Quốc gia Pháp (Bibliothèque national de France): http://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k5848625d/f29.image |
Bản nhạc được ký âm theo phương pháp năm dòng kẻ và lời bài Đăng đàn đã xuất bản: Trong trang in lời ca thì in là Đăng-đàn-cung (Điệu Quốc- ca) Hymne National Annamite:
Bản nhạc mới này thực chất là phỏng soạn theo âm điệu truyền thống bài “Đăng đàn đơn” được vua Bảo Đại đã kế thừa từ vua cha Khải Định và chỉ cải tiến bản quốc thiều cho “hiện đại” theo phong cách phương Tây mà thôi…
Trích điệu “Đăng đàn đơn” trong hệ thống đại nhạc cung đình để tiện so sánh:
Chính phủ Trần Trọng Kim, tháng 4/1945 trong dự thảo kiện toàn chính phủ mới, cũng đã quyết định tiếp tục lấy bài Đăng đàn làm quốc ca: “Bài quốc ca thì từ trước vẫn dùng bài “Đăng đàn” là bài ca rất cổ, mà âm điệu nghe nghiêm trang. Chúng tôi nghĩ: trước khi có bài nào hay hơn và có nghĩa lý hơn thì hãy cứ dùng bài ấy”.3
Với tư liệu trên, có thể “minh oan” cho bản quốc ca triều Nguyễn, một thời gian dài được cho là điệu nhạc “Đăng đàn cung” truyền thống.
V.P
(TCSH352&SDB29/06-2018)
.....................................................
1. Dương Quang Thiện, Sách đã dẫn tr.31-34.
2. Vĩnh Phúc (Bùi Ngọc Phúc), Âm nhạc cổ truyền Việt Nam qua báo chí nửa sau TK XX, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 2011, tr. 85.
3. Trần Trọng Kim (1969), Một cơn gió bụi (Kiến văn lục), Nxb. Vĩnh Sơn, Sài Gòn.
DƯƠNG BÍCH HÀ
Âm nhạc dân gian (ÂNDG) xứ Huế (chúng tôi muốn mở rộng không gian địa lý của nó bao gồm một số huyện từ phía Nam Quảng Trị trở vào) là một thành phần của văn hóa dân gian Huế, nhưng cũng là một bộ phận của âm nhạc truyền thống dân tộc.
TRƯƠNG TRỌNG BÌNH
Nằm trong hệ thống Tiểu nhạc, mỗi bài trong “Mười bản ngự” đều có thể diễn tấu một cách độc lập nhưng khi liên kết và trình tấu liên tục “Mười bản ngự” trở thành một hệ thống bài bản liên hoàn thống nhất tựa như một bài bản lớn.
PHAN THUẬN THẢO
Ca Huế là thể loại âm nhạc thính phòng dành cho giới danh gia vọng tộc, tao nhân mặc khách của Huế xưa. Thời điểm ra đời của Ca Huế không được ghi trong sử sách, song nhiều học giả đã dựa trên một số chứng cứ văn hóa - xã hội để đoán định rằng nó bắt đầu hình thành dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu (1691 - 1725).
PHAN THUẬN THẢO
Trong nhạc mục của Ca Huế hiện nay có một bài bản chính thống nhưng không mấy phổ biến, đó là bài Lộng điệp.
TÔN THẤT BÌNH
Nước Trung Quốc, về thời cổ "Vua Hán Vũ Đế (140 - 86 tr. Tây lịch) định lễ Giao tự để tế tiên địa tôn miếu và bách thần, mới đặt ra nhạc phủ.
DƯƠNG BÍCH HÀ
Xứ Huế là mảnh đất của thơ ca, là không gian của nhạc. Đặc điểm của Huế là sự dung hợp tự nhiên giữa dân dã với đô thị, cung đình; là ranh giới khó phân định giữa bác học với dân gian, giữa ngoại ô và nội thị...
PHAN THUẬN THẢO
“Di tình nhã điệu” là một văn bản Hán Nôm quý hiếm của âm nhạc cổ truyền Việt Nam. Tác giả và niên đại không được ghi chép trên tài liệu này nên chưa được xác định chính xác.
TRẦN HỮU PHÁP
Những nhạc sĩ sáng tác chúng tôi mỗi khi gặp nhau thường nói vui có lẽ chúng ta phải chuyển ngành, bởi vì những tác phẩm chúng ta tạo ra từ trái tim của mình cứ phải nằm trong ngăn kéo qua năm tháng.
PHAN THUẬN THẢO
Các khái niệm trống và mái là một biểu tượng của cặp phạm trù âm - dương đã được sử dụng trong âm nhạc truyền thống Huế. Cũng như cặp phạm trù âm - dương, trống và mái thể hiện hai mặt đực và cái, sáng và tối, cương và nhu… đối lập.
NGUYỄN CÔNG TÍCH
Được sự đồng ý về mặt chủ trương của Lãnh đạo tỉnh Thừa Thiên Huế, Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế phối hợp với Trung tâm Hỗ trợ sáng tác Văn học nghệ thuật (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), Hội Nhạc sĩ Việt Nam tổ chức Trại sáng tác Âm nhạc “Huế xưa và nay”, diễn ra từ ngày 08 đến 29/9/2018 với sự tham gia của 16 nhạc sĩ tên tuổi trong cả nước.
PHAN THUẬN THẢO
Quạnh quẽ màn loan, tay ôm đàn tình tang tích tịch
Cung réo rắt đau lòng riêng càng thêm chạnh, vì ai thêm bận
Ngồi trông bạn, kìa đâu bạn, mờ mịt trời mây én nhạn lìa đôi
Tình đau thương tình ôi…
Có tiếng trong giới mộ điệu âm nhạc từ thập niên 1990, song đến bây giờ nhạc sĩ (NS) Nguyễn Việt Hoàng mới đóng góp cho quê hương nhạc phẩm “Ai về cầu ngói Thanh Toàn” nhân Festival Huế 2018.
Trong chuyến thăm Việt Nam, ngày 4/3 sau khi đến Huế, Nhà vua và Hoàng hậu Nhật Bản đã đến thăm Đại Nội và xem biểu diễn Nhã nhạc cung đình Huế tại Nhà hát Duyệt Thị Đường.
PHAN THUẬN THẢO
Bước sang thế kỷ XX, tình hình văn hóa xã hội của nước ta có nhiều biến chuyển theo những ảnh hưởng của văn hóa phương Tây sau nhiều thập kỷ chịu sự đô hộ của Pháp.
TRỌNG BÌNH
Những vũ khúc cung đình Huế luôn mang đậm tính triết lý và thẩm mỹ phương Đông. Ở đó, sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa các động tác múa, sự di chuyển đội hình theo các tuyến, ngang, dọc, xéo cộng với việc tạo hình tượng theo hình khối làm nên nét đặc trưng riêng biệt.
Nhạc: NGUYỄN TRUNG DŨNG
Thơ: LÊ BÁ NGỮ
TÔN THẤT BÌNH
Ba Vũ là đoàn múa cung đình độc nhất còn lại ở Huế đến ngày nay. Đây là một đoàn có nguồn gốc lịch sử lâu đời; có nghệ thuật trình diễn độc đáo.
Nhạc: THANH SỬ
Thơ: TRẦN THỊ TỐ NGA
Nhạc: ĐỨC TÙNG
Thơ: HẠO NHIÊN