Sau khi triều đình nhà Nguyễn cáo chung, âm nhạc cung đình cũng mất đi môi trường diễn xướng nguyên thủy, do đó loại hình nghệ thuật này đã theo chân các nghệ nhân cung đình lan tỏa về với dân gian, tác động vào nghệ thuật dân gian trên nhiều vùng văn hóa trong cả nước.
Hiện nay, ngoài một số bài bản đang còn được bảo tồn và phát huy, thì vẫn còn một số bài bản thuộc hệ thống Nhã nhạc cung đình Huế đã bị mai một hoặc tản mác trong dân gian, trong đó có bài bản Nhã nhạc Tam Thiên (hay còn gọi là Tam Thiên khúc).
“Tam Thiên” là một trong 17 bài bản cơ bản của Tế nhạc, được triều đình nhà Nguyễn tấu trong các dịp tế lễ và trong các dịp khác của vua chúa (phần dâng rượu trong nghi thức tế lễ), về sau được lưu truyền trong dân gian chủ yếu ở các vùng phía Bắc tỉnh Thừa Thiên Huế. Qua một thời gian dài, nay gần như bị thất truyền với nhiều nguyên nhân khác nhau. Theo các nghệ nhân, sở dĩ bài bản này bị thất truyền do ít được chú ý đến vì nó có đường nét giai điệu bình thường, âm hình tiết tấu khá đơn giản, phạm vi sử dụng lại hạn hẹp, hầu như chỉ được dùng làm “nhạc dẫn” trong lễ tế. Trong khi đó thì các bài bản lớn khác như: Long ngâm, Bình bán, Lưu thủy… lại thường được sử dụng trong nhiều tình huống khác nhau (dâng hương, yến tiệc…) vì giai điệu của chúng phong phú, linh hoạt, tiết tấu phức tạp và có sức cuốn hút dễ hấp dẫn người nghe hơn.
Bài bản Nhã nhạc Tam Thiên được sử dụng khi nghi thức dâng rượu bắt đầu (tuần sơ hiến…), đây bài bản được thể hiện theo phương thức hòa tấu dàn nhạc. Để nêu được giá trị nghệ thuật của bài bản Tam Thiên nói riêng và các bài bản thuộc hệ thống Nhã nhạc cung đình Huế nói chung, các nghệ nhân thường tập trung khảo sát một số nguyên tắc trong việc sử dụng các bài bản và nghệ thuật hòa tấu của hai dàn nhạc Đại nhạc và Tiểu nhạc còn lại hiện nay.
Dàn Đại nhạc có hai bộ, đó là bộ gõ (trống, mõ…) và bộ hơi (kèn); dàn Tiểu nhạc có ba bộ, đó là bộ gõ (trống bản, phách…), bộ hơi (sáo) và bộ dây (đàn nhị, đàn nguyệt…). Xét về mặt hiệu quả âm thanh, phần giai điệu do bộ hơi, bộ dây thể hiện, phần tiết tấu do bộ gõ đảm nhiệm, trong đó nhạc công trống giữ vai trò nhạc trưởng chỉ huy dàn nhạc về mọi mặt: Giai điệu, nhịp độ, sắc thái…
Về tốc độ và nhịp, bài Tam Thiên thường được diễn tấu sao cho thích hợp với các bước chân đi đều của những người dẫn rượu (bộ dẫn rượu).
Trong dàn nhạc truyền thống ở Huế, thông thường người đánh trống là nhạc trưởng điều khiến tất cả các thành viên. Do đó, các nhạc công kèn, đàn đều phải dựa vào sự ra dấu (bằng câu thủ) do người đánh trống thực hiện để vào bài cho đúng phách nhịp kể cả đúng bài bản. Trong lễ tế, nhạc công trống giữ vai trò trung gian điều khiển tạo sự hòa nhịp giữa các hoạt động của ban văn lễ (xướng, dẫn rượu…) và ban nhạc.
Nói chung, khi đánh trống điều khiển các người dẫn rượu (bộ dẫn) bước đều, các nghệ nhân đều thống nhất sử dụng ba roi Tòong Tòong Cắc với mục đích sau:
- Roi Tòong thứ nhất (ký hiệu T): Báo cho bộ dẫn chuẩn bị và chú ý.
- Roi Tòong thứ hai (ký hiệu T): Báo cho bộ dẫn thực hiện động tác cầu (thân người hơi khom xuống, cẳng chân với đùi hợp thành một góc 90o mũi chân hướng về trước, sau đó đá chân về phía trước rồi hạ bàn chân xuống ngay tiếng Tòong thứ hai).
- Roi Cắc cuối cùng (ký hiệu C): Báo cho bộ dẫn đặt bàn chân xuống.
Chính cách phân bố này đã tạo nên một khuôn trống rõ ràng (gồm hai nhịp):
- Nhịp thứ nhất: Roi Cắc được thực hiện trên phách thứ nhất, ba phách còn lại là thời gian trống nghỉ dành cho bộ dẫn đưa mũi bàn chân sau tiếp giáp với gót bàn chân trước vừa được đặt xuống, động tác này được nghệ nhân Hồ Đăng Châu gọi là “đỡ gót chân” (trong vũ đạo tuồng ta hay gọi là động tác ký).
- Nhịp thứ hai: Roi Tòong thứ nhất được thực hiện trên phách một và ngân dài qua phách hai của nhịp. Roi Tòong thứ hai được thực hiện trên phách ba và ngân dài qua phách bốn của nhịp.
Với sự nối tiếp lần lượt của các khuôn trống cho ta cảm nhận được tính tuần hoàn của ba roi: T.T.C…T.T.C…T.T.C… Ứng với ba roi này, bộ dẫn chỉ bước được một bước và làm động tác ký. Như vậy, nếu diễn tấu trọn vẹn một bài Tam Thiên (10 nhịp) bộ dẫn bước được năm bước. Chính điều này, cho phép người đánh trống áng chừng được số bước chân cần thực hiện của bộ dẫn để tính toán số lần cần lặp lại của bài Tam Thiên.
Trong thực tế, khi điều khiển bộ dẫn (ở giai đoạn dâng rượu) và dàn nhạc, người đánh trống thường phải đổ trống sau lệnh xướng: “nghệ đại vương thần vị tiền”. Tuy vậy, trước khi đổ trống, muốn cho dàn nhạc đánh bài gì, nhạc công trống phải thực hiện câu thủ của bài đó để ra lệnh cho dàn nhạc diễn tấu rồi mới đổ một hồi trống để bộ dẫn nâng khay lên. Sau đó, nhạc công trống dựa vào giai điệu dàn nhạc đang diễn tấu để thực hiện ba roi T.T.C… đúng phách nhịp của bài với tốc độ vừa phải để bộ dẫn bước đúng nhịp, đúng giai điệu dàn nhạc đang thực hiện. Kể từ đây, dàn nhạc diễn tấu liên tục và chỉ dừng lại khi nhạc công trống báo hiệu dứt nhạc.
Những giá trị nghệ thuật của bài bản Nhã nhạc Tam Thiên có ý nghĩa thiết thực trong việc phục vụ nghi lễ ở chốn cung đình xưa, cũng như trong dân gian hiện nay; khi thực hiện hồ sơ khoa học về bài bản Nhã nhạc Tam Thiên, nhóm nghiên cứu với nguyện vọng phục dựng lại bài bản này đúng như những gì nó vốn có, để gìn giữ và phát huy những vốn cổ mà tiền nhân của chúng ta đã để lại.
Nguồn BVPL
DƯƠNG BÍCH HÀ
Âm nhạc dân gian (ÂNDG) xứ Huế (chúng tôi muốn mở rộng không gian địa lý của nó bao gồm một số huyện từ phía Nam Quảng Trị trở vào) là một thành phần của văn hóa dân gian Huế, nhưng cũng là một bộ phận của âm nhạc truyền thống dân tộc.
TRƯƠNG TRỌNG BÌNH
Nằm trong hệ thống Tiểu nhạc, mỗi bài trong “Mười bản ngự” đều có thể diễn tấu một cách độc lập nhưng khi liên kết và trình tấu liên tục “Mười bản ngự” trở thành một hệ thống bài bản liên hoàn thống nhất tựa như một bài bản lớn.
PHAN THUẬN THẢO
Ca Huế là thể loại âm nhạc thính phòng dành cho giới danh gia vọng tộc, tao nhân mặc khách của Huế xưa. Thời điểm ra đời của Ca Huế không được ghi trong sử sách, song nhiều học giả đã dựa trên một số chứng cứ văn hóa - xã hội để đoán định rằng nó bắt đầu hình thành dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu (1691 - 1725).
PHAN THUẬN THẢO
Trong nhạc mục của Ca Huế hiện nay có một bài bản chính thống nhưng không mấy phổ biến, đó là bài Lộng điệp.
TÔN THẤT BÌNH
Nước Trung Quốc, về thời cổ "Vua Hán Vũ Đế (140 - 86 tr. Tây lịch) định lễ Giao tự để tế tiên địa tôn miếu và bách thần, mới đặt ra nhạc phủ.
DƯƠNG BÍCH HÀ
Xứ Huế là mảnh đất của thơ ca, là không gian của nhạc. Đặc điểm của Huế là sự dung hợp tự nhiên giữa dân dã với đô thị, cung đình; là ranh giới khó phân định giữa bác học với dân gian, giữa ngoại ô và nội thị...
PHAN THUẬN THẢO
“Di tình nhã điệu” là một văn bản Hán Nôm quý hiếm của âm nhạc cổ truyền Việt Nam. Tác giả và niên đại không được ghi chép trên tài liệu này nên chưa được xác định chính xác.
TRẦN HỮU PHÁP
Những nhạc sĩ sáng tác chúng tôi mỗi khi gặp nhau thường nói vui có lẽ chúng ta phải chuyển ngành, bởi vì những tác phẩm chúng ta tạo ra từ trái tim của mình cứ phải nằm trong ngăn kéo qua năm tháng.
PHAN THUẬN THẢO
Các khái niệm trống và mái là một biểu tượng của cặp phạm trù âm - dương đã được sử dụng trong âm nhạc truyền thống Huế. Cũng như cặp phạm trù âm - dương, trống và mái thể hiện hai mặt đực và cái, sáng và tối, cương và nhu… đối lập.
NGUYỄN CÔNG TÍCH
Được sự đồng ý về mặt chủ trương của Lãnh đạo tỉnh Thừa Thiên Huế, Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế phối hợp với Trung tâm Hỗ trợ sáng tác Văn học nghệ thuật (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), Hội Nhạc sĩ Việt Nam tổ chức Trại sáng tác Âm nhạc “Huế xưa và nay”, diễn ra từ ngày 08 đến 29/9/2018 với sự tham gia của 16 nhạc sĩ tên tuổi trong cả nước.
PHAN THUẬN THẢO
Quạnh quẽ màn loan, tay ôm đàn tình tang tích tịch
Cung réo rắt đau lòng riêng càng thêm chạnh, vì ai thêm bận
Ngồi trông bạn, kìa đâu bạn, mờ mịt trời mây én nhạn lìa đôi
Tình đau thương tình ôi…
VĨNH PHÚC
Dưới thời Khải Định (1916 - 1925), năm 1919 nhà vua cho lập một dàn nhạc kèn hơi theo kiểu Pháp để làm công tác đối ngoại, phục vụ cho các nghi lễ do triều đình tổ chức như các buổi đón khách, tiếp sứ…
Có tiếng trong giới mộ điệu âm nhạc từ thập niên 1990, song đến bây giờ nhạc sĩ (NS) Nguyễn Việt Hoàng mới đóng góp cho quê hương nhạc phẩm “Ai về cầu ngói Thanh Toàn” nhân Festival Huế 2018.
Trong chuyến thăm Việt Nam, ngày 4/3 sau khi đến Huế, Nhà vua và Hoàng hậu Nhật Bản đã đến thăm Đại Nội và xem biểu diễn Nhã nhạc cung đình Huế tại Nhà hát Duyệt Thị Đường.
PHAN THUẬN THẢO
Bước sang thế kỷ XX, tình hình văn hóa xã hội của nước ta có nhiều biến chuyển theo những ảnh hưởng của văn hóa phương Tây sau nhiều thập kỷ chịu sự đô hộ của Pháp.
TRỌNG BÌNH
Những vũ khúc cung đình Huế luôn mang đậm tính triết lý và thẩm mỹ phương Đông. Ở đó, sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa các động tác múa, sự di chuyển đội hình theo các tuyến, ngang, dọc, xéo cộng với việc tạo hình tượng theo hình khối làm nên nét đặc trưng riêng biệt.
Nhạc: NGUYỄN TRUNG DŨNG
Thơ: LÊ BÁ NGỮ
TÔN THẤT BÌNH
Ba Vũ là đoàn múa cung đình độc nhất còn lại ở Huế đến ngày nay. Đây là một đoàn có nguồn gốc lịch sử lâu đời; có nghệ thuật trình diễn độc đáo.
Nhạc: THANH SỬ
Thơ: TRẦN THỊ TỐ NGA