LÊ MAI PHƯƠNG
Tuồng, loại hình nghệ thuật truyền thống đặc sắc của dân tộc manh nha hình thành từ thế kỷ XIII dưới thời Trần. Tuồng phát triển mạnh vào thế kỷ XVII -XVIII. Sang triều Nguyễn (thế kỷ XIX) Tuồng vẫn giữ vị trí xứng đáng trong đời sống văn hóa ở cung đình cũng như trong dân gian. Sau khi nhà Nguyễn cáo chung, Tuồng cũng mất đi môi trường diễn xướng, hiện nay đang có nguy cơ mai một dần.
Tuồng cung đình Huế, hình chụp năm 1874 - Ảnh: wiki
Trong quá trình nghiên cứu nghệ thuật Tuồng, chúng tôi đã khai thác, thu thập được từ những nghệ nhân cung đình còn đang sống, và các nghệ sĩ trẻ được thừa hưởng vốn quý này những “từ ngữ chỉ nghệ thuật Tuồng” tương đối đầy đủ. Hy vọng, đây sẽ là sự đóng góp cho công tác bảo tồn và phát huy nghệ thuật Tuồng nói chung và từ ngữ Tuồng nói riêng.
Đặc điểm nguồn gốc từ ngữ nghệ thuật Tuồng Huế
Trong quá trình hình thành và phát triển của mình, ngôn ngữ nào cũng thu hút nhiều yếu tố của các ngôn ngữ khác, do đó có nhiều từ ngữ giống hoặc tương tự với các từ ngữ của các ngôn ngữ khác đó là lớp từ ngoại lai.
Về từ ngữ nghệ thuật Tuồng Huế, từ ngữ gốc Ấn - Âu chiếm tỉ lệ quá ít so với từ thuần Việt và từ ngữ gốc Hán, cụ thể chỉ xuất hiện 2 từ là: giày ba ta và đàn ghi ta phím lõm. Tác động của phương Tây khi tiếp xúc và ảnh hưởng văn hóa, chính trị đối với nước ta. Tuy nhiên sự xuất hiện hạn chế, với tần xuất quá thấp như vậy vì Tuồng vốn là nghệ thuật truyền thống của dân tộc Việt, sức ảnh hưởng của phương Tây cũng không đủ mạnh, giai đoạn phát triển của loại hình này đã đạt đến đỉnh cao và thoái trào vào cuối triều Nguyễn nên sự ảnh hưởng của ngôn ngữ Ấn - Âu vào loại hình nghệ thuật này không đáng kể.
Số lượng từ ngữ gốc Hán lớn hơn số lượng từ thuần Việt. Do chữ Hán đóng vai trò công cụ hàng đầu trong văn hóa Việt Nam dưới chế độ quân chủ. Nó là văn tự chính trong các lĩnh vực văn hóa, hành chính, giáo dục, thi cử, lễ nghi, văn học. Và nguồn gốc của Tuồng hình thành manh nha từ triều Trần, phát triển rực rỡ dưới triều Nguyễn, được triều đình phong kiến đặc biệt quan tâm do đó từ ngữ gốc Hán trong nghệ thuật Tuồng Huế chiếm số lượng vượt trội là điều dễ hiểu.
Lớp từ thuần Việt chiếm tỉ lệ thấp hơn từ vay mượn gốc Hán. Ở mục từ đơn chỉ bằng 1/3 ngữ định danh, cho thấy rằng: lượng từ đơn để chỉ cách thức hát, múa cũng như đạo cụ trong Tuồng không nhiều. Đó là lớp từ cơ sở, lớp từ này là gốc để kết hợp với hình vị khác tạo nên ý nghĩa loại biệt đáp ứng với sự ngày càng đa dạng hóa các khái niệm, tính chất, cách thức mà nghệ thuật Tuồng Huế biểu thị.
Đặc điểm cấu tạo từ ngữ nghệ thuật Tuồng Huế Từ đơn
Qua khảo sát, thống kê và phân loại, số lượng từ đơn trong từ vựng chỉ nghệ thuật Tuồng Huế mà chúng tôi thu được là 111 đơn vị, chiếm 20,94. Tuy số lượng, tỉ lệ không cao nhưng đây là bộ phận từ thuộc lớp từ vựng cơ bản của vốn từ ngữ nghề nghiệp, ra đời sớm và đóng vai trò quan trọng trong giao tiếp giữa các nghệ nhân, nghệ sĩ trong nghề và chúng cũng là những đơn vị đóng vai trò hạt nhân trong cấu tạo từ phát sinh. Những từ đơn ấy thường gọi tên những động tác, bài bản, âm nhạc, cách thức hát cũng như đạo cụ trong nghệ thuật Tuồng, có thể nói, từ đơn phân bổ tương đối đều trong tất cả các mục từ. Đào, kép, Bê, bứt, cầm, chống, khai, loan, bạch, thán, láy, luyến, áo, mão, râu, đao, phủ, cờ, cung, tên, gậy, đuốc, kiếm, quạt... (đạo cụ Tuồng). Từ đơn chỉ động tác Tuồng có nội dung phản ánh hẹp hơn so với các mục từ trên, vì vậy, phần lớn các từ đơn chỉ động tác Tuồng phải là những người trong nghề mới hiểu, ví dụ như Bê, bứt, chuốt, cầu, chao, chặt, chỉ, khai, loan... bởi các động tác trong Tuồng hình thành từ võ thuật và múa dân gian kết hợp với sự cách điệu hóa mang tính tượng trưng, ước lệ nên một số từ có tính đơn lẻ phục vụ trong nghề, không phổ biến.
Từ ghép đẳng lập (ghép phân nghĩa)
Những từ ghép đẳng lập chỉ nghệ thuật Tuồng Huế mà chúng tôi thu thập được chỉ có 2 hình vị. Cũng như phần lớn các từ ghép đẳng lập 2 âm tiết khác, trật tự các yếu tố trong những từ nghề nghiệp kiểu này, về lý thuyết là tự do, nghĩa là chúng có thể hoán đổi vị trí cho nhau như: trùng điệp, luyến láy, chùy côn, ta có điệp trùng, láy luyến, côn chùy, xóc xông. Nhưng trên thực tế, khả năng thay đổi trật tự các yếu tố ở các từ ghép đẳng lập chỉ nghệ thuật Tuồng Huế là có hạn chế. Có một số từ mà cách sắp xếp trước sau của các yếu tố là không thể thay đổi. Sự cố định này là do thói quen như: trống mái, cung tên, điệu thức. Còn từ xóc xông, mang hình thức là láy phụ âm đầu, song nó không phải là từ láy, đây là từ ghép được sắp xếp theo trật tự logic của hiện thực khách quan. Trật tự logic ở đây là thời gian, việc xảy ra trước sẽ ở vị trí trước còn việc xảy ra sau sẽ đi sau.
Về mặt nguồn gốc, những yếu tố tham gia cấu tạo từ ngữ chỉ nghệ thuật Tuồng Huế một nửa là yếu tố thuần Việt. Nếu dùng ký hiệu V để chỉ yếu tố thuần Việt, thì về lý thuyết các từ ngữ kiểu này có cấu trúc hình thái như sau: V - V: Trống mái, xóc xông, luyến láy. Mô hình cấu trúc thứ 2 mà chúng tôi tìm được là: H - H: cung tên, điệu thức, trùng điệp.
Ngữ định danh
Qua thu thập, phân loại, số lượng ngữ định danh chiếm phần lớn trong tổng số đơn vị từ ngữ thu thập được 419 đơn vị, chiếm 79,06%.
Dựa vào số lượng yếu tố trung tâm và từ loại của nó, chúng tôi chia ngữ định danh thành 2 loại chính: Ngữ định danh chỉ sự vật và ngữ định danh chỉ hoạt động.
a) Ngữ định danh chỉ sự vật
Để phân định loại định danh này chúng ta có nhiều cách phân loại: Phân loại theo tính chất các mối quan hệ, phân loại theo cấu trúc tầng bậc, phân loại theo cấu tạo nguồn gốc.
- Phân loại theo tính chất các mối quan hệ
+ Ngữ định danh có cấu trúc danh từ - danh từ (A - A) như: Đào văn, kép, câu mái, lời hường...
+ Ngữ định danh có cấu trúc danh từ - thành tố phụ danh ngữ: (A - A’) như: Tuồng xuân nữ, kép tròng mỏ, chân chữ bát, lý năm canh, áo đào văn.
+ Ngữ định danh có cấu trúc danh từ - động từ (A - B) như: Đào chiến, bộ gõ, tóc búi, bạn hát, nam chạy, râu vẽ...
+ Ngữ định danh có cấu trúc danh từ - thành tố phụ động ngữ (A - B’) như: Dây thắt lưng, Trống nhảy thành, Khách hành binh, Trống khắc canh...
+ Ngữ định danh hợp nghĩa có cấu trúc danh từ - tính từ (A - C) như: Đào điên, đào ác, đào bi, đào hài, kép đen, tóc bạc, tròng lõa, tròng xéo...
+ Ngữ định danh có cấu trúc danh từ - thành tố phụ tính ngữ (A - C’) như: đào giả dại, lý thương nhau...
+ Ngữ định danh có cấu trúc thành tố chính danh ngữ - danh từ (A’ - A) như: cẩm tú hài, đăng đàn cung.
+ Ngữ định danh có cấu trúc thành tố chính danh ngữ - động từ (A’ - B) như đàn cò lòn, đàn cò líu.
+ Ngoài ra, ngữ định danh hợp nghĩa còn có một số kiểu cấu trúc danh từ - số từ như: đàn nhị, đàn tam, đàn tứ, hò ba, hò bảy, tư, rụp ba, rụp một, rương nhất, rương nhì,...
- Phân loại theo cấu trúc tầng bậc
Tùy theo mức độ phức tạp về mặt cấu tạo trong nội bộ thành tố trực tiếp, quan hệ phụ lại còn có thể chia thành nhiều thứ bậc khác nhau. Nếu quan hệ chính là quan hệ bậc 1, thì ta có thể chia quan hệ phụ thành quan hệ bậc 2, bậc 3, bậc 4...
Ví dụ: Trong ngữ định danh áo đào văn, ta sẽ có:
Quan hệ chính bậc 1: giữa áo và đào văn
Quan hệ phụ (bậc 2): giữa đào và văn
- Ngữ định danh có cấu tạo 2 tiếng:
Tất cả các mô hình A - A, A - B, A - C, đều chỉ có một bậc:
Ví dụ:
- Ngữ định danh có cấu tạo 3 tiếng. Đó là các từ có mô hình cấu trúc theo kiểu: A - A’, A - B’ và A - C’.
Loại này có một thành tố trực tiếp cấu tạo bởi một tiếng, thành tố trực tiếp còn lại có cấu tạo 2 tiếng, tùy vào thành tố trực tiếp 2 tiếng có quan hệ cú pháp và ý nghĩa như thế nào mà chia chúng thành 2 loại:
* Nếu thành tố trực tiếp 2 tiếng có quan hệ chính phụ thì ngữ định danh hay ngữ định danh loại này có cấu tạo 2 bậc, ví dụ: A - A’, A - B’, A - C’, A’ - A, A’ - B, A’ - C
* Nếu thành tố trực tiếp 2 tiếng chỉ có quan hệ mà không có quan hệ ngữ nghĩa, hoặc có quan hệ ngữ nghĩa mà không có quan hệ chính phụ thì ngữ định danh (ngữ định danh) loại này chỉ có cấu tạo 1 bậc như:
- Phân loại theo cấu tạo nguồn gốc
Các ngữ định danh (ngữ định danh) chỉ nghệ thuật Tuồng Huế đa phần được cấu tạo từ các yếu tố Hán - Việt với 272 từ ngữ. Còn lại 258 từ ngữ được cấu tạo từ các yếu tố thuần Việt. Điều này hoàn toàn phù hợp với hoàn cảnh lịch sử, với môi trường diễn xướng nguyên thủy của loại hình nghệ thuật truyền thống này. Ta có thể thấy các mô hình sau:
V - V (Con hát, đào điên, xỏ léo, trống cơm, câu mái).
V - H (Cửa sinh, đào bi, ra vĩ, vào thủ, hơi thuận, hơi nghịch).
H - V (Niêm râu, hạ hơi, trống lệnh, nam ai, nam biệt, ngữ khí).
V - H - V (Đầu thụ búi, đầu thụ xõa).
H - H (Phân trần, tư thế, bình điệu, điệp âm, điệu thức).
H - V - H (Xướng xuống nam, thủ hát khách, thủ hát tẩu mã).
H - A - V (Đàn ghita phím lõm).
V - A (Giày bata).
(H: yếu tố Hán: V: yếu tố thuần Việt; A: yếu tố Ấn - Âu).
b) Ngữ định danh phân nghĩa chỉ hoạt động
Các ngữ định danh chỉ hoạt động đều có từ 2 đến 4 tiếng, trong đó 2 tiếng chiếm đa số, tiếp đến là 3 tiếng.
- Ngữ định danh có cấu tạo 2 tiếng: Thông thường có cấu trúc 1 bậc.
- Ngữ định danh có cấu tạo 3 tiếng: Ở các ngữ định danh này, đứng đầu thường là các thực từ mà cụ thể đó là các động từ, các phụ ngữ sau nó có thể là một từ mà cũng có thể là một ngữ đoạn, một mệnh đề nên cấu trúc của nó nhiều nhất là 2 bậc.
- Ngữ định danh có cấu tạo 4 tiếng:
Ngữ định danh có cấu tạo 4 tiếng mà chúng tôi thu thập chỉ có duy nhất 1 ngữ định danh: ngồi trên gót chân có cấu trúc 3 bậc.
Như vậy, về cấu tạo, từ ngữ nghệ thuật Tuồng Huế chỉ có 1 từ láy, đó là từ chập chõa. Từ láy chập chõa dựa trên sự mô tả âm thanh của nhạc cụ và mô tả hình thức thể hiện nhạc cụ. Đây là hình thức thể hiện rất đặc biệt của nhạc cụ này mà hình như không có đối với nhạc cụ truyền thống khác
Từ ngữ nghệ thuật Tuồng Huế có 111 từ đơn chiếm tỉ lệ 20,94 %, tuy chiếm số lượng ít hơn ngữ định danh song đây là từ cơ bản, làm cơ sở để tạo nên các ngữ định danh.
Đại bộ phận từ ngữ nghệ thuật Tuồng Huế là ngữ định danh, gồm 419 đơn vị chiếm tỉ lệ 79,06%. Số lượng từ đẳng lập rất ít 2 đơn vị. Như vậy, có thể nói, vốn từ nghệ thuật Tuồng Huế chủ yếu là ngữ định danh phân nghĩa, vì thế nó tạo cho từ ngữ nghệ thuật Tuồng Huế có đặc điểm cá thể, cụ thể về nghĩa.
Từ nghệ thuật Tuồng Huế có cấu tạo từ 1 đến 4 âm tiết, chủ yếu là loại 2,3 âm tiết, loại 4 âm tiết không nhiều. Nhìn chung từ nghệ thuật Tuồng Huế có cấu tạo theo phương thức định danh miêu tả, như cấu tạo của cụm từ, kết cấu lỏng.
Về nguồn gốc và thành phần các yếu tố trong từ chỉ nghệ thuật Tuồng Huế, từ thuần Việt và từ vay mượn (chủ yếu là từ có yếu tố Hán) chiếm tỉ lệ tương đương nhau, từ thuần Việt có 258 từ, chiếm 48,67.%, từ vay mượn có 272 đơn vị, chiếm 51,33%.
Khi khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển với những công cụ, phương tiện hiện đại thì việc giao lưu ngôn ngữ với quá trình vay mượn từ của các ngôn ngữ khác là một tất yếu. Song, từ ngữ chỉ nghệ thuật Tuồng Huế với những đặc điểm riêng của ngành nghề truyền thống luôn mang tính ổn định, bền vững, ít chịu sự chi phối, tác động của lịch sử xã hội nên cơ bản vốn từ vẫn được lưu giữ.
L.M.P
(SH307/09-14)
DƯƠNG BÍCH HÀ
Âm nhạc dân gian (ÂNDG) xứ Huế (chúng tôi muốn mở rộng không gian địa lý của nó bao gồm một số huyện từ phía Nam Quảng Trị trở vào) là một thành phần của văn hóa dân gian Huế, nhưng cũng là một bộ phận của âm nhạc truyền thống dân tộc.
TRƯƠNG TRỌNG BÌNH
Nằm trong hệ thống Tiểu nhạc, mỗi bài trong “Mười bản ngự” đều có thể diễn tấu một cách độc lập nhưng khi liên kết và trình tấu liên tục “Mười bản ngự” trở thành một hệ thống bài bản liên hoàn thống nhất tựa như một bài bản lớn.
PHAN THUẬN THẢO
Ca Huế là thể loại âm nhạc thính phòng dành cho giới danh gia vọng tộc, tao nhân mặc khách của Huế xưa. Thời điểm ra đời của Ca Huế không được ghi trong sử sách, song nhiều học giả đã dựa trên một số chứng cứ văn hóa - xã hội để đoán định rằng nó bắt đầu hình thành dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu (1691 - 1725).
PHAN THUẬN THẢO
Trong nhạc mục của Ca Huế hiện nay có một bài bản chính thống nhưng không mấy phổ biến, đó là bài Lộng điệp.
TÔN THẤT BÌNH
Nước Trung Quốc, về thời cổ "Vua Hán Vũ Đế (140 - 86 tr. Tây lịch) định lễ Giao tự để tế tiên địa tôn miếu và bách thần, mới đặt ra nhạc phủ.
DƯƠNG BÍCH HÀ
Xứ Huế là mảnh đất của thơ ca, là không gian của nhạc. Đặc điểm của Huế là sự dung hợp tự nhiên giữa dân dã với đô thị, cung đình; là ranh giới khó phân định giữa bác học với dân gian, giữa ngoại ô và nội thị...
PHAN THUẬN THẢO
“Di tình nhã điệu” là một văn bản Hán Nôm quý hiếm của âm nhạc cổ truyền Việt Nam. Tác giả và niên đại không được ghi chép trên tài liệu này nên chưa được xác định chính xác.
TRẦN HỮU PHÁP
Những nhạc sĩ sáng tác chúng tôi mỗi khi gặp nhau thường nói vui có lẽ chúng ta phải chuyển ngành, bởi vì những tác phẩm chúng ta tạo ra từ trái tim của mình cứ phải nằm trong ngăn kéo qua năm tháng.
PHAN THUẬN THẢO
Các khái niệm trống và mái là một biểu tượng của cặp phạm trù âm - dương đã được sử dụng trong âm nhạc truyền thống Huế. Cũng như cặp phạm trù âm - dương, trống và mái thể hiện hai mặt đực và cái, sáng và tối, cương và nhu… đối lập.
NGUYỄN CÔNG TÍCH
Được sự đồng ý về mặt chủ trương của Lãnh đạo tỉnh Thừa Thiên Huế, Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế phối hợp với Trung tâm Hỗ trợ sáng tác Văn học nghệ thuật (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), Hội Nhạc sĩ Việt Nam tổ chức Trại sáng tác Âm nhạc “Huế xưa và nay”, diễn ra từ ngày 08 đến 29/9/2018 với sự tham gia của 16 nhạc sĩ tên tuổi trong cả nước.
PHAN THUẬN THẢO
Quạnh quẽ màn loan, tay ôm đàn tình tang tích tịch
Cung réo rắt đau lòng riêng càng thêm chạnh, vì ai thêm bận
Ngồi trông bạn, kìa đâu bạn, mờ mịt trời mây én nhạn lìa đôi
Tình đau thương tình ôi…
VĨNH PHÚC
Dưới thời Khải Định (1916 - 1925), năm 1919 nhà vua cho lập một dàn nhạc kèn hơi theo kiểu Pháp để làm công tác đối ngoại, phục vụ cho các nghi lễ do triều đình tổ chức như các buổi đón khách, tiếp sứ…
Có tiếng trong giới mộ điệu âm nhạc từ thập niên 1990, song đến bây giờ nhạc sĩ (NS) Nguyễn Việt Hoàng mới đóng góp cho quê hương nhạc phẩm “Ai về cầu ngói Thanh Toàn” nhân Festival Huế 2018.
Trong chuyến thăm Việt Nam, ngày 4/3 sau khi đến Huế, Nhà vua và Hoàng hậu Nhật Bản đã đến thăm Đại Nội và xem biểu diễn Nhã nhạc cung đình Huế tại Nhà hát Duyệt Thị Đường.
PHAN THUẬN THẢO
Bước sang thế kỷ XX, tình hình văn hóa xã hội của nước ta có nhiều biến chuyển theo những ảnh hưởng của văn hóa phương Tây sau nhiều thập kỷ chịu sự đô hộ của Pháp.
TRỌNG BÌNH
Những vũ khúc cung đình Huế luôn mang đậm tính triết lý và thẩm mỹ phương Đông. Ở đó, sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa các động tác múa, sự di chuyển đội hình theo các tuyến, ngang, dọc, xéo cộng với việc tạo hình tượng theo hình khối làm nên nét đặc trưng riêng biệt.
Nhạc: NGUYỄN TRUNG DŨNG
Thơ: LÊ BÁ NGỮ
TÔN THẤT BÌNH
Ba Vũ là đoàn múa cung đình độc nhất còn lại ở Huế đến ngày nay. Đây là một đoàn có nguồn gốc lịch sử lâu đời; có nghệ thuật trình diễn độc đáo.
Nhạc: THANH SỬ
Thơ: TRẦN THỊ TỐ NGA