Đình trong phố - còn và mất

16:04 29/09/2015

Văn hóa đình làng từng có một vị trí hết sức quan trọng trong cộng đồng người dân sống ở chốn kinh kỳ Thăng Long - Kẻ Chợ xưa kia. Theo thống kê, ở khu phố cổ hiện nay vẫn còn hơn 60 ngôi đình trong tổng số 112 công trình tôn giáo tín ngưỡng từng có tại đây. Số phận những ngôi đình đó giờ ra sao, trong thời buổi kinh tế “mặt tiền thành tiền mặt”?

Đình Cổ Vũ (85 Hàng Gai) thờ thần Bạch Mã và thần Linh Lang còn giữ được cây đa cổ thụ trước cửa. Ảnh: Nguyễn Thế Sơn

Một thời vàng son

Khu phố cổ được hình thành từ hệ thống các bến chợ nằm xen lẫn với các làng nông nghiệp. Theo dấu vết của những bản đồ cổ về Hà Nội, có thể thấy rất nhiều ao hồ, kênh rạch với các công trình tín ngưỡng như đình, chùa, đền cũng đã được xây dựng xung quanh đó. Ngôi đình làng trở thành một trung tâm không thể thiếu trong không gian của các cộng đồng làng nghề quần tụ với nhau trong suốt nhiều thế kỷ. Chức năng chính của các ngôi đình trong khu phố cổ là thờ thành hoàng - vị thần bảo hộ cho người dân trong khu vực. Có nhiều ngôi đình thờ chính các vị thần được tôn vinh là Thành hoàng của kinh thành Thăng Long như thần sông Tô Lịch, thần rừng Thiết Lâm...; lại có những ngôi đình thờ nhân thần là các vị vua, vị quan hay những người có công cai quản, trị vì đất nước như Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, anh hùng dân tộc Lý Thường Kiệt, vua Lê Lợi, đại thần Nguyễn Trung Ngạn hay tướng quân Trần Lựu... Ngoài ra, một phần rất lớn các ngôi đình được lập nên để thờ tổ nghề của các làng nghề tứ trấn lên đất kinh thành lập nghiệp.

Đến nay, còn nhiều ngôi đình thờ tổ nghề nổi tiếng vẫn còn giữ được như đình Hàng Quạt (thờ tổ nghề quạt), đình Lò Rèn (thờ tổ nghề rèn), đình Kim Ngân (thờ tổ nghề vàng bạc), đình Hoa Lộc Thị (thờ tổ nghề nhuộm vải), đình Hà Vĩ (thờ tổ nghề sơn), đình Tú Thị (thờ tổ nghề thêu), đình Trang Lâu (thờ tổ nghề mộc), đình Hàng Thiếc (thờ tổ nghề thiếc), đình Kiếm Hồ (thờ tổ nghề vôi), đình Phả Trúc Lâm (thờ tổ nghề da), đình Hài Tượng (thờ tổ nghề giấy), đình Nhị Khê (thờ tổ nghề tiện)... Các ngôi đình thờ tổ nghề đó đã trở thành ngôi nhà chung, nơi kết nối, hội tụ những người cùng họ tộc, quê quán, góp phần tăng thêm tính gắn kết của các mối quan hệ cộng đồng.

Về mặt chức năng, các ngôi đình trong khu phố cổ vẫn thờ Thành hoàng, thờ tổ nghề… nhưng có thể nhận thấy, về mặt vóc dáng qui hoạch kiến trúc và cấu trúc không gian, chúng lại có những đặc điểm hết sức khác biệt so với những ngôi đình truyền thống ở các vùng quê Bắc Bộ.

Nhìn chung, các ngôi đình đều không có hồ nước cũng như sân đình rộng rãi trước mặt. Do đặc điểm của đô thị nên các ngôi đình thường có hình ống đặc trưng, diện tích hạn chế với mặt tiền nhỏ hẹp. Tuy vậy, theo điều tra nghiên cứu, cũng như qua lời kể của các thủ từ, nhiều ngôi đình đều có hướng quay mặt về phía sông, hồ hay nguồn nước đã từng tồn tại trước kia.

Không những bị thu hẹp về qui mô, giản lược về cấu trúc mà nghệ thuật kiến trúc, trang trí của các ngôi đình làng trong phố cổ cũng không quá đặc sắc ở mức tuyệt tác như nhiều ngôi đình ở miền quê (như Đình Bảng, Tây Đằng, Chu Quyến). Tuy nhiên, sự khéo léo, tinh xảo của nghệ thuật chạm khắc dân gian vẫn còn lưu dấu rất đậm nét trên các bức cửa võng, cuốn thư, hương án cũng như trên các chi tiết kết cấu mái gỗ của đình. Có lẽ chính sự hài hòa giữa tỷ lệ ngôi đình với kích thước của thế đất cũng như các công trình kiến trúc phố phường xung quanh mới là yếu tố tạo nên vẻ đẹp hấp dẫn riêng của khu phố cổ.

Muôn kiểu biến hình

Hiện nay, trong quá trình đô thị ồ ạt, cộng với hệ quả từ những bất cập trong quản lý, việc duy trì và gìn giữ không gian kiến trúc cũng như chức năng gốc của những ngôi đình gặp không ít khó khăn. Một vấn đề lớn mà các công trình truyền thống, trong đó có những ngôi đình, đang phải đối mặt là sức ép về mặt dân số, nhu cầu về nhà ở, nhu cầu mở rộng kinh doanh của cư dân phố cổ.

Trong quá trình thực hiện dự án “Tôi đi tìm ngôi nhà chung”, tôi đã chụp bộ ảnh ghi lại hiện trạng mặt tiền các ngôi đình trong khu phố cổ. Quá trình đó diễn ra trong một thời gian dài và giúp tôi hiểu thêm nhiều điều về câu chuyện của những ngôi đình và lịch sử của thành phố nơi tôi sinh ra và lớn lên.

Tôi đã chụp được hiện trạng của hơn 60 ngôi đình trong phố cổ, trừ một số ít ngôi đình thực sự vẫn giữ được vẻ cổ kính xưa kia, phần lớn các ngôi đình còn lại đã bị biến đổi hình thù và công năng. Có ngôi đình chỉ còn lại một phần trên tầng hai, có ngôi đình chỉ còn lại phần hậu cung, hoặc có ngôi đình đã bị gộp chung vào không gian của đền, chùa. Sự biến hình của những ngôi đình trong phố cổ, có lẽ nếu không thực hiện dự án nghệ thuật này, tôi cũng khó mà hình dung ra được muôn vàn hình trạng của nó.

Phần lớn các ngôi đình đã bị biến đổi hình thù và công năng. Có ngôi đình chỉ còn lại một phần trên tầng hai, có ngôi đình chỉ còn lại phần hậu cung, hoặc có ngôi đình đã bị gộp chung vào không gian của đền, chùa. Chỉ còn khoảng hơn 20 ngôi đình có thể nhận ra bằng mắt thường với những dấu hiệu về kiến trúc cổ đặc trưng, còn phần lớn đã thay hình đổi dạng thành những ngôi nhà tư, thành trụ sở này hay cơ quan nọ...
Chỉ còn khoảng hơn 20 ngôi đình có thể nhận ra bằng mắt thường với những dấu hiệu về kiến trúc cổ đặc trưng, còn phần lớn đã thay hình đổi dạng thành những ngôi nhà tư, thành trụ sở này hay cơ quan nọ... khó mà tưởng tượng ra hình dáng thuở ban đầu của chúng nữa. Xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu về chỗ ở sinh hoạt buôn bán ngày càng gia tăng, không gian của đình - những ngôi nhà chung - bỗng trở thành những vị trí đắc địa, béo bở, nhất là khi nền kinh tế đô thị của Việt Nam vẫn chưa thoát khỏi mô hình “kinh tế vỉa hè, mặt phố”, “mặt tiền thành tiền mặt”… Những hậu quả từ chính sách di dân và phân phối nhà cửa thời bao cấp, cộng với giá trị kim tiền gia tăng chóng mặt thời hậu Đổi mới đã trở thành những cơn sóng dữ, liên tiếp tấn công, xâm thực nốt những di sản còn sót lại của một thời.

Rất nhiều lần trong quá trình tiến hành dự án, tôi cảm thấy chán nản và vô vọng khi những mảnh vỡ từ quá khứ ngày càng trở nên mờ nhạt trước sự xâm chiếm hết sức mạnh mẽ và áp đảo của “hiện thực đời sống”. Tôi có cảm giác như mình vừa phải chạy đua với thời gian trước sự tan biến nhanh chóng của những dấu vết cổ còn sót lại, vừa phải “khéo léo” ứng xử để những người dân sinh sống ở các địa chỉ đó không quá “để ý” đến công việc “nghiên cứu” của mình. Nhiều lần, ở những địa chỉ như đình Hà Vĩ (phố Hàng Hòm), đình Lò Rèn (phố Lò Rèn), đình Tú Thị (phố Yên Thái)..., “quần chúng nhân dân” tỏ ra hết sức dò xét khi tôi cố gắng tiếp cận thông tin với chiếc máy ảnh trên tay. “Đi đi, đóng cửa rồi!”, “Chụp ảnh làm gì thế?”, “Có việc gì, mùng Một hay Rằm hẵng quay lại” là những câu tôi thường được nghe từ những người dân sinh sống bán hàng trước cửa và trong đình. Thực tế, ở nhiều ngôi đình thờ tổ nghề còn sót lại, các hộ dân hiện diện và bành trướng khắp nơi, rất khó để tìm một lối đi lách vào phía trong đình nếu không có sự hợp tác từ phía họ.

May mà vẫn còn những điểm sáng

Nhưng bên cạnh đó, tôi cũng lại thấy được một số tín hiệu đáng mừng từ những khảo sát của mình... Chẳng hạn, trong quá trình điền dã lấy tư liệu, tôi đã may mắn gặp được những người trông giữ đình tốt bụng muốn chia sẻ những hiểu biết, thông tin quý giá của họ. Cụ thể như ở đình Thanh Hà (số 10 Ngõ Gạch, một ngôi đình có tuổi đời thuộc dạng cổ nhất thờ tướng quân Trần Lựu), hay đình Bích Lưu (18 Thợ Nhuộm)..., tôi đã được cung cấp thêm những tài liệu quý để xác thực cũng như được nghe thêm những câu chuyện về lịch sử của những ngôi đình. Cụ ông trông đình Bích Lưu đã dẫn tôi ra 66 Hai Bà Trưng (trước là đình Bích Du, nay trở thành một cửa hàng chuyên bán đồ loa đài điện tử) và 33 phố Thợ Nhuộm (trước đây không lâu còn là đình Anh Mỹ), để kể cho tôi nghe câu chuyện về những người dân làng Lưu Truyền, huyện Mỹ Hào, Hưng Yên, mấy trăm năm trước đã lên đất Kẻ Chợ lập phường nghề nhuộm như thế nào.

Bên cạnh đó, tôi được biết, hơn 10 năm qua, chính quyền thành phố Hà Nội đã cùng với thành phố kết nghĩa Toulouse của Pháp lập kế hoạch cải tạo trùng tu phục hồi nguyên trạng một số ngôi đình trong phố cổ hết sức công phu như đình Đồng Lạc (Hàng Đào), đình Đông Thành (Hàng Vải), đình Phả Trúc Lâm (Hàng Hành), đình Kim Ngân (Hàng Bạc), đình Quán Đế (Hàng Buồm)... Không những thế, hoạt động văn hóa nghệ thuật như hát chầu văn, triển lãm thư pháp, triển lãm nghệ thuật sắp đặt... mang sắc thái vừa hiện đại vừa truyền thống cũng bắt đầu được đưa vào những ngôi đình đó, làm cho không gian đình làng trở lại là trung tâm văn hóa cộng đồng. Đình Quán Đế hiện giờ còn là trung tâm cung cấp thông tin về di sản trong phố cổ.

Có lẽ đó chính là một số điểm sáng trong quá trình bảo tồn và phát huy di sản văn hóa trong đó có không gian văn hóa đình làng trong phố cổ. 

Theo Nguyễn Thế Sơn* - Tia Sáng

---------------------
* Tác giả bài viết đã tốt nghiệp Thạc sĩ Nghệ thuật, chuyên ngành Nhiếp ảnh Nghệ thuật tại Học viện Mỹ thuật Trung ương, Bắc Kinh; hiện giảng dạy tại ĐH Mỹ thuật Việt Nam. Một số triển lãm thời gian gần đây của anh về Hà Nội, gắn kết những ký ức trong quá khứ của thành phố với nhịp sống đang dần thay đổi của hiện tại, thu hút rất nhiều sự quan tâm của công chúng như: Hà Nội - một bảo tàng sống (tháng 5-6/2015), Nhà Tây biến hình (tháng 10/2013), Nhà mặt phố (tháng 3/2012).  

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Họ Nguyễn Tiên Điền của Nguyễn Du lừng danh như thế nào thì mọi người đã rõ. Nhưng gia phả họ Nguyễn này ở Tiên Điền thì cũng chỉ cho biết vị tổ khải tổ  là cụ Nguyễn Nhiệm (Nhậm), kế tiếp theo trực hệ là Nguyễn Đức Hành (Phương Trạch hầu) , Nguyễn Ôn, Nguyễn Thế, Nguyễn Quỳnh, Nguyễn Nghiễm (Xuân Quận công) thân phụ của Nguyễn Du.

  • LÊ THỊ MÂY

    1
    Hơn mười ba năm về trước, kỳ vừa ngưng bom đạn, thường từ sớm chủ nhật, tôi đã về quanh quẩn với phố đổ rậm rì cỏ dại. Nhiều lần đếm đi đếm lại, cũng chỉ còn sót có mười bốn cây dừa, thân bị băm kín miểng bom. Tàn lá xơ xáp, đỏ cháy.

  • PHẠM HỮU THU

    Đầu tháng tư năm nay, tôi mới có dịp trở lại Hải Vân, bởi từ khi có hầm đường bộ, xe cộ ít qua lại con đường đèo quanh co, đầy hiểm nguy nhưng có cảnh quan tuyệt mỹ này.

  • Ngoài một dung lượng văn hóa tộc người đủ thỏa mãn độc giả thì công trình Mọi Kontum(1937) của Nguyễn Kỉnh Chi và Nguyễn Đổng Chi còn là một văn phẩm tạo được sức lôi cuốn, hấp dẫn đặc biệt. Tham luận góp phần lý giải thành công của tác phẩm trên ba phương diện: Lối khảo tả chân phương mà thấu đạt, trí tuệ sắc bén mà vẫn hồn hậu và văn phong ấn tượng.

  • Chỉ 15 năm, như chớp mắt, hàng loạt các công trình hiện đại đã hùng hổ đẩy những biểu tượng cũ của Sài Gòn đi sâu vào trong quá khứ, biến chúng thành những tiểu cảnh.

  • INRASARA

    Khi mẹ la chị Hám: “Mi không biết hôm nay là ngày gì sao mà hốt thóc trong lẫm đi xay”, thì tôi biết ngay đây là ngày trăng hết harei ia bilan abih, ngày người Cham kiêng xuất hàng ra khỏi nhà.

  • Dù có thể không sinh ra trên mảnh đất này nhưng đã là người Việt Nam ai cũng cảm nhận được một Hà Nội của chúng ta từ sông Hồng đỏ nặng phù sa đến Hồ Gươm lung linh truyền thuyết, Văn miếu - Quốc Tử Giám thâm nghiêm... Và cũng xao xuyến nhận ra một cái gì đó rất Hà Nội, của Hà Nội, từ mùa thu se sẽ lâng lâng đến đêm nồng nàn hoa sữa, cơn mưa tìm về phố cổ với màn sương lan nhẹ mặt Hồ Gươm...

  • Chợ Gôi ở xã Sơn Hòa, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh có tự bao giờ? Câu hỏi thật khó và cũng chưa thể có câu trả lời đầy đủ. Mà cái tên nôm “Gôi” còn được dùng  để chỉ địa danh của nhiều nơi khác ở Việt Nam.

  • Vượt chặng đường hơn 50 km về hướng bắc, từ trung tâm thành phố Pleiku - tỉnh Gia Lai chúng tôi tìm đến làng Kon Solal ở xã Hà Tây, huyện Chư Păh - một trong vài ngôi làng nguyên sơ cuối cùng còn lại của đồng bào BaNa.

  • Đó là ngôi làng dưới chân núi Chư Mom Ray nhiều huyền thoại. Điều kỳ lạ là cả đứa trẻ 10 tuổi cũng nói được nhiều thứ tiếng, không chỉ tiếng của dân tộc khác, mà họ còn nói được tiếng Lào, Miên và những đứa trẻ được đi học thì tiếng Anh cũng không phải là ngoại lệ.

  • “Thất bại trước quân Triệu Đà tại Cổ Loa của An Dương Vương dẫn đến 1.000 năm Bắc thuộc là nỗi đau lớn của dân tộc Việt. Nhưng Cổ Loa không chỉ ghi dấu thất bại thiên thu. Mà đó còn là nơi Ngô Quyền chọn làm kinh đô ngay khi đại phá quân Nam Hán năm 938, mở ra thời kỳ độc lập tự chủ của nước việt với triều đình phương Bắc. Và điều này đang bị lãng quên...”.

  • Chùa Tiêu Sơn (thường gọi là chùa Tiêu) - một danh thắng nổi tiếng và cũng là - trung tâm Phật giáo cổ xưa của Việt Nam.

  • Đền Quả Sơn ở Bạch Ngọc nay là xã Bồi Sơn, huyện Đô Lương thờ Lý Nhật Quang. Ngài là con thứ tám của vua Lý Thái Tổ, được phong tước Uy Minh vương. Mùa xuân năm 1902, Nguyễn Sinh Cung  trên nẻo đường theo cha đi dạy học, thăm thú quê hương có đến chiêm bái đền Quả Sơn - một trong bốn ngôi đền linh thiêng nhất của tỉnh Nghệ.

  • Hát ví Sông La (tên gọi một làn điệu ví của Xứ Nghệ; cũng có thể hiểu là điệu ví ở sông La) tham luận này đề cập giới hạn những điệu ví ra đời, tồn tạị, phát triển ở vùng sông La, miền Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.

  • Chùa Nền, phường Láng Thượng, Đống Đa, Hà Nội, được xây dựng từ thời vua Lý Thần Tông (1116–1138), bài trí thờ Phật và song thân của thiền sư Từ Đạo Hạnh là ngài Từ Vinh và bà Tằng Thị Loan.

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG

    Những năm cuối thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX, ngành Dân tộc học Việt Nam nói chung và miền Trung Tây Nguyên nói riêng được các nhà khoa học, chính trị, bác sĩ của Pháp tiến hành nghiên cứu và công bố nhiều tác phẩm có giá trị.

  • (SHO) Cứ hễ nhắc tới miền Trung, mỗi người Việt Nam có thể mường tượng ngay ra trong đầu những vùng đất của thiên tai triền miên. Miền đất, nơi mà từ tấm bé cho tới khi lìa đời dường như đều gắn với con chữ nghèo và sớm sương mưa nắng lận đận mưu sinh.

  • (SHO) Vậy là tôi đã ở Miền Tây mênh mang sông nước! Tôi đã đặt chân lên bến Ninh Kiều Cần Thơ và ấp Mũi Cà Mau! Tôi đã đi tàu ca nô trên những con kênh, con lạch mà hai bên bờ mọc đầy những cây đước, cây tràm…

  • Huế xưa – nay, Huế của khúc ruột nước non, chứa đựng trong mình cả một bề dày lịch sử thông qua nét trầm mặc cổ kính của những lăng tẩm, cung điện, chùa chiền… Nhưng có lẽ ít ai biết, Huế vẫn còn ẩn chứa trong mình một A Lưới - vùng đất nổi tiếng với những phong cảnh thiên nhiên kỳ thú và trầm lắng nhiều giá trị văn hoá cổ xưa của cộng đồng các dân tộc thiểu số.

  • LÊ QUANG THÁI

    Ngày sinh, nơi sinh, ngày mất, nơi mất, nơi an táng, nơi cát táng là những mốc thời gian quan trọng, đáng nhớ của đời người và con cháu vì dân gian coi đó là việc thể hiện hiếu đạo đối với người đã mất, với tổ tiên, ông bà: Sống nhà thác mồ.