Bức tường tưởng niệm Khi những giọt nước mắt đã cạn khô Trên đôi mắt những người cô phụ Khi đám trẻ đã lớn lên Tự chăm lo cuộc sống của riêng mình Khi những bậc sinh thành của những cậu con trai Được ghi tên mình trên bức tường tưởng niệm Cũng đã theo chúng xuống mồ Bức tường vẫn còn đây Mãi nói một điều Với giọng điệu na ná nhau cho tất cả những ai Đã dâng hiến trái tim cao thượng Như để tỏ lòng tôn vinh đến họ Trước khi bạn gửi những đứa con Tham gia chiến tranh ở một nơi xa xôi nào đó Đến đây... ghé thăm chốc lát cùng tôi Đến đây... đứng trước bức tường này Thấp người xuống bởi sức nặng của những cái tên Đang lớn dần lên mơ hồ cùng những cơn mưa của thời gian Nhớ đi tôi là ai Và đâu là điều mà tôi chẳng bao giờ được trở nên như thế Trước khi bạn tiễn đưa những người con Hãy đến đây, ngắm nhìn cùng tôi một tiếng đồng hồ Đứng trước bức tường này Tôi sẽ giúp cho bạn hiểu 1985 Mồ hôi đêm Tôi thấy dòng sông Drang trong cơn mưa bụi Dãy núi ChuPong lờ mờ như đỉnh Olympus Nhưng đây chẳng là nhà cho chư thần - Tôi nói thế Tiếng răng rắc của những viên đạn súng trường Tiếng vù vù của cánh trực thăng Đáp trên những cánh đồng dãy chết Để tải thương và mang đi những tử thi “Nắm lấy, thằng ngu! Hạ thấp đi!” Tôi nghe ai đó lên tiếng “Nằm xuống trên cái giường khô khốc kia. Có thấy chiếc túi ngủ đó không. Ta sẽ lấy cho mi chiếc khác Bây giờ, dông!” Tôi té xuống úp mặt lên đám bùn lầy nhầy nhụa Mùi hôi thối của những xác chết vây quanh chiếc giường Tỉnh dậy đi, tỉnh dậy đi! Tôi nghe tiếng người đàn bà nói Chúa lòng lành! Đã ba mươi năm trôi qua rồi. Thức dậy và về nhà đi. 1998 Tượng đài trên đường Khâm Thiên Hình ảnh người đàn bà khắc kỷ giao hòa trong ánh sáng Đóng băng bởi thời gian. Vươn lên trời cao chói lòa thách thức Của cơn mưa đạn chì nóng chảy Khi trong vòng tay là đứa trẻ bà đang cố chở che Dựa vào bà như cái chết của thế kỷ Những thanh âm vù vù đều đặn của những chuyến bay thả bom B52 Đã trốn chạy từ lâu bầu trời đêm Hà Nội Thế nhưng trên đôi tai hoá đá Sự im lặng vẫn thét gào Vang dội trong năm tháng với những thanh âm thịnh nộ Để xác nhận những dấu vết của mảnh đất thần thánh này cho kí ức. 2000 VÕ CA DAO dịch WILLIAM J.BRITTON, JR (Mỹ) |
PABLO NERUDATrên đỉnh Machu Picchu(*)
Yevgeny Yevtushenko - Odysseas Elytis
Maiakôpxki là nhà thơ lớn của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới và là nhà thơ lớn của nhân loại thế kỷ XX.Thơ của ông biểu hiện nhiệt tình công dân mãnh liệt, là tiếng hát của tương lai, của chủ nghĩa Cộng sản, và tiếng thét căm giận đả phá những mặt tiêu cực trong cuộc sống Xô Viết lúc bấy giờ. Nhà thơ của quãng trường, nhà thơ hùng biện, đó là những từ để mệnh danh người nghệ sĩ kiểu mới này. Ông rất ít viết về thơ tình. Trong dịp kỷ niệm 30 năm sinh của nhà thơ. Tạp chí Văn học Xô Viết ngoài việc giới thiệu những bài thơ chủ đề công dân và xã hội nổi tiếng, còn giới thiệu 2 bài thơ tình của ông. Tâm hồn nồng nhiệt, đẩy đến tận cùng mọi sự, ngay cả lý tưởng hay tình yêu đó là bản chất của thơ Maia.
Hải Kỳ - Đỗ Hoàng - Nguyễn Khắc Thạch
Pimen Pan-tren-cô _ Xéc-gây Da-côn-ni-cốp _ Anatôn Grêtanikốp
Mắc-xim Tăng-kơ (tên thật là Ép-ghê-ni Skuốc-kô) là nhà thơ của đồng ruộng, đất đai, đường sá, khắp các vùng của lãnh thổ Liên bang Xô-viết và rất nhiều nước khác.
XERGÂY ÊXÊNHIN(Trích từ “Những khúc bi ca” và tuyển tập thơ Xergây Êxênhin)
Ngày 22 tháng 10 năm 1987 Viện Hàn lâm Thụy Điển công bố tên người được tặng giải thưởng Nôben văn học - nhà thơ Nga sống ở Mỹ Iosif Brodsky. I.Brodsky là nhà văn Nga thứ năm được nhận giải thưởng cao quý này. Sau I.Bunhin (1933), B.Pastemnac (1958), M. Solokhov (1965), A.Xongienhixun (1970).
Ludmila TatianitchevaTuổi tôi
OCTAVIO PAZ Tặng các nhà thơ André Breton và Benjamin Perêt
J.W.GOETHECa khúc thiêng liêng
LTS: Nhân dịp kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười (7 - 11) Sông Hương trân trọng giới thiệu chùm thơ của I.Bunhin, tác giả được giải Nobel 1933.
LTS: TOMMY OLOFSSON (1950) là một trong những nhà thơ "sung mãn" nhất Thụy-Điển hiện nay, tác giả bảy tập thơ (tính đến 1991). Ông còn là một chuyên gia về James Joyce, có bằng tiến sĩ văn chương của đại học Lund, tác giả hoặc người biên tập nhiều công trình biên khảo, và nhà phê bình văn nghệ nổi tiếng của nhật báo Thụy Điển Svenska Dagbladet. Bản dịch Thơ nguyên sơ dưới đây dựa theo bản Anh văn của Jean Pearson: Elemental Poems (White Pine Press, N.Y. 1991)
WISLAWA SZYMBORSKA (Nữ nhà thơ Ba Lan. Giải Nobel văn học 1996)
FRED MARCHANT (Mỹ) Tặng Diệu LinhTựa đề của bài thơ là viết sau ba mươi năm Mậu Thân. Ba mươi cái cúi đầu bắt buộc về những mất mát, những nỗi đau do chiến tranh gây ra.
Thi sĩ viết về những điều vi tế của cuộc sống, từ chối nói về mình và cả những người nổi tiếng. Cả cuộc đời, thi sĩ chỉ nhắc đến Thomas Mann một lần trong thơ như sự thiếu vắng con người - sự lưu lạc trên chính quê hương, tâm hồn mình. Và Brodsky, một tâm hồn bị lệch kênh, bị trục xuất… trong diễn văn Nobel. Và cả dòng sông tư nghị: Heraclite.Szymborska, nữ sĩ Ba Lan, là một bậc thầy về thơ nghị luận, viết thơ cũng như cả tiểu luận là để trả lời cảm xúc và câu hỏi: tôi không biết. Sinh 1923 tại Kornik, hiện sống tại Krakow. Viết khoảng 210 bài thơ và một ít tiểu luận từ 1952 đến nay. Nobel văn chương 1996 và nhiều giải thưởng danh dự khác.
PAVIL BUKHARAEP - IVAN SIÔLÔCỐP - IURI SMELIÔP
LTS: Là nhà thơ, tác giả của ba cuốn sách về thi ca. Cùng với Nguyễn Bá Chung ông đã cùng dịch tập thơ “Từ góc sân nhà em” của Trần Đăng Khoa. Ông là giáo sư Anh ngữ, Giám đốc chương trình sáng tạo viết văn của Đại học Suffolk. Ông còn là người thẩm định tác phẩm bậc thầy của Trung tâm William Joiner nghiên cứu về chiến tranh và hệ quả xã hội tại Umass Boston.Ông cũng là người giới thiệu hai cuốn sách Núi Bà Đen của Larry Heinemann và Cốm non (Green Rece) của Lâm Thị Mỹ Dạ đã được dịch ở Mỹ.
Baolin Cheng (Trương Bảo Lâm) là một nhà thơ thành công của “thế hệ thứ ba” các nhà thơ hiện đại Trung Quốc (thế hệ thứ nhất thuộc thời “ngũ tứ” 1919, thế hệ thứ hai được gọi là thế hệ “thơ mông lung” sau cải cách mở cửa). Hiện định cư tại San Françisco (Hoa Kỳ) với tư cách một nhà thơ song ngữ Hoa - Mỹ. Theo Paul Hoover, chủ biên cuốn “Thơ Hậu hiện đại Mỹ”, thơ Baolin Cheng sử dụng những cách thức của thơ siêu hình học- những chuyện kể nén chặt và những cấu trúc ý niệm - phục vụ cho các mục tiêu hiện thực chủ nghĩa. Những bài thơ sau đây của Baolin Cheng đã xuất bản ở Mỹ và Trung Quốc dưới hình thức song ngữ.
RUDYARD KIPLINGRUDYARD KIPLING (1865 Bombay - 1936 Londres) sống trong môi trường Anh-Ấn văn hóa rất cao, là một nhà văn nổi tiếng với những cuốn tiểu thuyết Le Livre de la Jungle (Cuốn sách của rừng xanh), Kim và là một nhà thơ . Thơ ông tập trung vào chủ đề giáo dục nhân cách và đạo đức. Bài thơ NẾU (IF) dưới đây là một bài thơ nổi tiếng của ông.