NGUYỄN ĐẮC XUÂN
Đêm giới thiệu Trường ca Hàn Mặc Tử, tại Học viện Âm nhạc Huế thầy Trần Văn Khê và nhạc sĩ Phạm Duy đã đưa chúng ta đi từ cõi thực mộng mơ trải qua những đau đớn, vật lộn với cơn đau đến ngất lịm và cuối cùng nương tựa vào niềm tin tâm linh để hiện hữu.
NS Phạm Duy và GSTS Trần Văn Khê
Qua cuộc giới thiệu, không những nhạc sĩ Phạm Duy giảng giải ca ngợi Hàn Mặc Tử mà còn có các con ông như Duy Quang, Duy Cường, Thái Hiền, Thái Thảo và người con rể Tuấn Ngọc đóng góp toàn bộ phần hát minh họa hết sức xuất sắc. Cả đại gia đình họ Phạm ngợi ca Hàn Mặc Tử. Sự kiện âm nhạc chưa từng có này diễn ra bên bờ sông Hương của thành phố Huế - thành phố được mệnh danh là đất Thần kinh (le Capital Merveilleux). Kỷ niệm 100 năm ngày sinh Hàn Mặc Tử được tổ chức nhiều nơi, vào nhiều thời điểm trong năm 2012, nhưng theo tôi khó có một cuộc kỷ niệm nào có thể hội tụ được những nhân vật văn hóa lớn như cuộc giới thiệu Trường ca Hàn Mặc Tử hôm đó.
Giáo sư Tiến sĩ Trần Văn Khê - người chắt ngoại của danh tướng Nguyễn Tri Phương ở Thừa Thiên Huế, là người thầy đã giúp cho sự sưu tầm, nghiên cứu, đào tạo nhiều thế hệ ca sĩ, nhạc sĩ, đặc biệt là ngành ca nhạc truyền thống Huế. Tất cả những hoạt động đưa âm nhạc Huế ra thế giới trong hơn nửa thế kỷ qua đều có sự vận động giúp đỡ của Thầy.
Nhạc sĩ Phạm Duy, người đã gắn bó với Huế từ lúc tôi mới 8 tuổi (1944), nay tôi cũng đã 75 tuổi - quá tuổi cổ lai hy từ lâu rồi, có nghĩa là Huế đã có trong Phạm Duy đã gần 70 năm. Là một người cầm bút xứ Huế, trong hồ sơ nghiên cứu Huế của tôi, cho tôi biết nhạc sĩ Phạm Duy đã đến Huế nhiều lần và ông đã để lại cho kho tàng Tân nhạc Việt Nam nhiều nhạc phẩm viết từ Huế và viết về Huế. Xin nêu một số ví dụ sau đây:
Lần thứ nhất: Vào mùa Xuân năm 1944, từ Hà Nội nhạc sĩ đến Huế với tư cách là một ca sĩ trong Gánh hát Đức Huy Charlot Miều. Gánh hát dừng chân tại rạp Tân Tân trước chợ Đông Ba. Lần đó, ông có dịp gặp kịch sĩ Vũ Đức Duy, nhạc sĩ Vĩnh Phan, ông Ngũ Đại (tức hoàng tử Vĩnh Trân, con trai của vua Thành Thái), nhạc sĩ Ngô Ganh, nhạc sĩ Văn Giảng, nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương, v.v. Đêm đêm các nhạc sĩ Huế đưa ông xuống ngủ đò trên sông Hương và nghe các cô Bích Liễu (phu nhân của Vĩnh Phan), cô Minh Mẫn ca Huế. Lần đầu tiên nhạc sĩ Phạm Duy bắt gặp được cái đẹp trong những câu hò, câu hát của Huế. Ông phát hiện ra âm giai ngũ cung lơ lớ của Huế. Về sau ông đã vận dụng dân nhạc Huế với âm giai ngũ cung lơ lớ vào các ca khúc trong phần vào miền Trung của trường ca Con đường cái quan.
Lần thứ hai: Sau Cách mạng Tháng 8, vào khoảng cuối tháng 10/1946, trên đường từ miền Nam ra Hà Nội, nhạc sĩ đã dừng chân ở Huế. Ông gặp nữ ca sĩ Tuyết mới vào nghề (sau là ca sĩ Ngọc Cẩm phu nhân của nhạc sĩ Nguyễn Hữu Thiết), ông đến hát ở Quán Nghệ Sĩ của ông bà Quốc Thành. Quán này được họa sĩ Phạm Đăng Trí trang trí rất đẹp. Ở đây Phạm Duy cùng hát với Bùi Công Kỳ - một người bạn của nhạc sĩ Đặng Thế Phong. Ông gặp lại thi sĩ Lưu Trọng Lư và được mời về nhà nghe cô Tôn Nữ Thị Mừng (Lệ Minh) đánh đàn tranh. Phạm Duy phổ nhạc bài thơ Tiếng thu của Lưu Trọng Lư. Đêm về, nhạc sĩ được mời làm việc với các ông Tố Hữu, Hải Triều, Nguyễn Chí Thanh. Phạm Duy được mời hát ở Đài Phát thanh Huế với các bài Gươm tráng sĩ, Chiến sĩ vô danh, Xuất quân được quần chúng cách mạng ở Huế tán thưởng. Nhạc sĩ gặp Kiều Miên - một nữ sinh trường Đồng Khánh yêu kiều diễm lệ đang nổi tiếng với hát bài Giọt mưa thu. Đặc biệt nhạc sĩ được gặp một người con gái đẹp trên đường Nam Giao. Nàng được xem như một Mỵ Nương ở trần thế và nhạc sĩ được làm Trương Chi, để rồi mối tình đó đã để lại cho Huế một bài hát nổi tiếng là Khối tình Trương Chi.
Lần thứ 3: Sau ngày toàn quốc kháng chiến hơn một năm, nhạc sĩ Phạm Duy hoạt động trong Đoàn Văn nghệ của Trung đoàn 304. Ông cùng kịch sĩ Bửu Tiến, ca sĩ Ngọc Khanh, ca sĩ Vĩnh Cường (người vừa mất cách đây mấy năm) và một số đội viên khác tình nguyện vào chiến trường Bình Trị Thiên. Khi vào chiến khu Ba Lòng, nhạc sĩ gặp các ông Hà Văn Lâu, Hoàng Trọng Khanh. Nhạc sĩ được tổ chức đưa về Đại Lược ven sông Ô Lâu ở phía bắc Huế, rồi bí mật đưa vô hát ở cầu ngói Thanh Toàn, có hôm lên đến vùng ven Huế ở cầu Ông Thượng thuộc làng Lại Thế sát với làng Vỹ Dạ. Tiểu đội vũ trang dẫn đường và bảo vệ ông có anh Vệ quốc đoàn trẻ Phùng Quán - sau này trở thành nhà văn nổi tiếng gốc Huế. Thực tế của chuyến đi lịch sử này đã giúp cho ông sáng tác được ba bài nhạc bất hủ với tựa đề Bao giờ anh lấy được đồn Tây, Bà mẹ Gio Linh, và Về miền Trung. Nhờ ba bài nhạc này Phạm Duy không những được tiếng là một nhạc sĩ kháng chiến xuất sắc mà ông còn được tình yêu của ca sĩ Thái Hằng - người vợ mà ông xem như một bậc “bậc Á Thánh” của ông sau đó. Cảm hứng ông thu được trong chuyến đi Bình Thị Thiên năm 1948, ông dùng để sáng tác ba bài hát nêu trên, ngoài ra Phạm Duy còn dành để viết các bài Tình nghèo, Người về, Bà mẹ quê, đặc biệt là bài Mười hai lời ru viết về 12 bà mẹ đã bị giặc Pháp giết rất đau đớn (tiếc là bài này thất truyền).
Lần thứ 4: Năm 1953, vào một đêm hè êm ả gợi lên cảnh huyền ảo tuyệt vời của xứ Huế, ông viết bài Dạ lai hương để tặng hai người đẹp nổi tiếng ở Huế lúc ấy là Thu Vân và Dạ Thảo.
Trên đây là những gì tôi biết được qua tư liệu.
![]() |
Bìa album Trường ca Mẹ Việt Nam và Con đường cái quan |
Từ đầu những năm sáu mươi, như tôi đã viết trong Tự truyện từ Phú Xuân đến Huế, tôi may mắn được gần nhạc sĩ Phạm Duy trong hầu hết những lần nhạc sĩ ra Huế để giới thiệu Trường ca Con đường cái quan với sinh viên Đại học Huế, giới thiệu Dân nhạc Việt phát triển với Huế, giới thiệu Trường ca Mẹ Việt Nam, sáng tác bài Tôi còn yêu tôi cứ yêu, hát Tâm Ca, hát Tâm Phẫn Ca chống chiến tranh của Mỹ mà trong đó có một vài bài nhạc sĩ phổ thơ của Thái Luân, thơ của tôi (các bài Bi hài kịch, Để lại cho em, Nhân danh, Chuyện hai người lính) v.v.. Cuộc tranh đấu mùa hè năm 1966 bị dìm trong máu, tôi thoát ly theo kháng chiến tiếp tục con đường đấu tranh để thống nhất đất nước mà nhạc sĩ đã gieo vào lòng tôi từ sau ngày tôi được nghe Con đường cái quan, Mẹ Việt Nam ở sân trường Đại học Huế.
Và cũng không cần phải tra cứu, những người yêu nhạc Phạm Duy cũng có thể kể thêm những nhạc phẩm Phạm Duy đã soạn cho Huế ngoài những bản tôi vừa nêu trên. Đó là những đoản khúc vào Miền Trung trong trường ca Con đường cái quan phần lớn dành cho Huế. Đặc biệt là đoản khúc Nước non ngàn dặn ra đi rất nổi tiếng trong mọi thời kỳ. Rồi nhiều đoản khúc khác trong Trường ca Mẹ Việt Nam cũng thế. Trong Dị khúc gồm những bài Phạm Duy phổ thơ Bích Khê có thêm bài Huế đa tình, hay bài Đây thôn Vỹ Dạ phổ thơ Hàn Mặc Tử.
Như nhiều lần tôi đã viết, tôi lớn lên đã chịu ảnh hưởng rất lớn bởi tình tự dân tộc trong bài Tình ca của Phạm Duy. Và không những tôi mà nhiều người thế hệ tôi đều rất thú vị với câu hát Phạm Duy đã “Biết ái tình ở dòng sông Hương”. Chính vì chút lịch sử đó nên tôi mạo muội đặt tên cho lời cám ơn này là Tạ ơn người tình xứ Huế.
Nhân sinh nhật năm 92 tuổi, thầy Trần Văn Khê, cũng như nhạc sĩ Phạm Duy bảo tôi rằng “Tới tuổi này không còn tính tháng, tính tuần nữa mà phải tính ngày”. Đúng như thế. Năm nay tôi mới 76 tuổi ta, nhỏ hơn các vị đến 16 tuổi, thế mà có lúc ra đường tôi phải chống gậy, nhiều người lứa tuổi tôi đang nằm uống nước bằng ống hút và cũng đã có nhiều người không còn gặp nhau nữa. Vì thế tôi rất mừng còn được gần hai ông. Tôi cầu mong các ông sống trên trăm tuổi. Tuy nhiên, tôi vẫn đề phòng, biết đâu… cho nên có ý kiến gì, có việc gì cần làm tôi phải làm ngay.
Theo nhận định của những người bạn Cố đô Huế trên cả nước: với tấm lòng của nhạc sĩ Phạm Duy đã dành cho Huế như thế, với khối lượng nhạc phẩm lớn lao của nhạc sĩ Phạm Duy dành cho Huế như thế (dù tôi chưa đủ thì giờ nêu cho hết), tôi xin kiến nghị với chính quyền Thừa Thiên Huế, Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế, Hội Nhạc sĩ Thừa Thiên Huế nên kính mời nhạc sĩ Phạm Duy làm một Hội viên danh dự của Hội Nhạc sĩ Thừa Thiên Huế. Chuyện Phạm Duy dành cho Huế đã là chuyện lịch sử, nếu kiến nghị của tôi được chấp nhận thì đây là một sự kiện quý báu của Thừa Thiên Huế dành cho nhạc sĩ lão thành Phạm Duy. Và, nếu kiến nghị của chúng tôi được hoan nghinh, thì cũng kính xin nhạc sĩ Phạm Duy nhận lời để nhạc sĩ đời đời là người tình của xứ Huế.
N.Đ.X
(SH281/7-12)
Từ anh bộ đội trở thành nhạc sĩ
Tên khai sinh của nhạc sĩ Xuân Giao (ảnh) là Trương Xuân Giao, sinh ngày 2-1-1932, tuy quê hương ở Hưng Yên, nhưng ra đời ở Tiên Lãng, TP Hải Phòng, lớn lên học Trường chuyên khoa Phan Thanh ở tỉnh Thái Bình.
Giáo dục âm nhạc trở nên rất quan trọng và cần thiết cho sự phát triển không chỉ mỗi cá nhân mà còn của một quốc gia
Đã hơn nửa thế kỷ kể từ ngày tình khúc Dư âm ra đời, ít ai biết ban đầu nó chỉ là một sáng tác “tính làm chơi bỏ túi” của anh bộ đội kháng chiến Nguyễn Văn Tý nhưng cuối cùng lọt ra ngoài rồi như gió bay đi “không còn cách nào chặn lại”.
Trong cuốn sách vừa phát hành mang tên Vang vọng một thời (NXB Hồng Đức và Công ty Sách Phương Nam ấn hành), cố nhạc sĩ Phạm Duy lần đầu tâm sự về hoàn cảnh ra đời những ca khúc nổi tiếng của ông như Bà mẹ Gio Linh, Đà Lạt trăng mờ, Nắng chiều rực rỡ, Ngậm ngùi, Kiếp nào có yêu nhau...
NGUYỄN TRỌNG TẠO
Đã có một thời chúng ta coi "Thơ Mới" (1930 - 1945) là thơ lãng mạn tiểu tư sản bi quan tiêu cực, coi những tác phẩm văn xuôi xuất sắc của Vũ Trọng Phụng là văn tự nhiên chủ nghĩa, là văn đồi trụy, dâm ô, sa đọa, coi những tác phẩm văn học viết về bi kịch, đau thương, mất mát của con người mới là bôi đen chế độ, là không lành mạnh.
Giữa chợ chiều, tiếng hát ru ngọt lịm làm người ta dừng lại. Câu chuyện hát ru giữa chợ chạm đến nhiều điều về văn hóa Việt - về người Việt và nét đẹp Việt hôm nay.
Tháng 10 tới, ca khúc Tiến quân ca của nhạc sĩ Văn Cao sẽ tròn 70 tuổi (10/1944 -10/2014). Ca khúc đã gắn liền với sự kiện lịch sử của dân tộc: Ngày 19/8 và 2/9/1945.
Giữa những xu hướng cách tân của các trường phái Ấn tượng, Biểu hiện, và sự nổi loạn của âm nhạc phi điệu thức trong khoảng thời kỳ năm 1900-1950, chủ nghĩa dân tộc nảy nở từ thế kỷ 19 vẫn bám trụ và tự làm mới mình theo hơi thở hiện đại.
Âm nhạc phi điệu thức bắt đầu nhen nhóm từ đầu thế kỷ 20 với những cách tân táo bạo trong hòa âm của trường phái Biểu hiện. Sự rũ bỏ dần dần những quy luật về điệu thức kế thừa từ hàng thế kỷ trước của âm nhạc phi điệu thức đã gây sốc lớn cho thính giả thời bấy giờ.
Họ coi đây là một sự nổi loạn trong lịch sử âm nhạc, nhưng không ngờ rằng nó lại dẫn đến một trật tự chưa từng có trong lịch sử sáng tác âm nhạc.
Cũng như trong hội họa, Ấn tượng (Impressionism) và Biểu hiện (Expressionism) là hai trường phái âm nhạc có tính lịch sử quan trọng, bởi chúng đánh dấu bước chuyển biến tâm lý của xã hội phương Tây khi giã từ thế kỷ 19 lãng mạn và kỷ luật để bước vào thế kỷ 20 đầy bạo lực và biến động.
BIỂN BẮC
Dẫn nhập
Chúng tôi nhớ trước đây - khi luận bàn về thơ, ở trên những vuông chiếu, hay bàn tròn hoặc ở sân diễn đàn thông tin giấy và điện tử - người ta thường hay đóng ấn cho những sáng tác “không ưa” rằng: đây là một bài viết có vần, là một bài vè chứ đâu phải thơ?!
Bạn có nhớ khi còn là một đứa trẻ, cách bạn nghe, nhận biết và cảm thụ âm nhạc khác với hiện tại như thế nào không?
Tháng 7 năm nay, nhạc sĩ Phó Đức Phương vừa tròn 70 tuổi. Bước vào lứa tuổi cổ lai hy, anh đang là một tay cự phách trong làng nhạc, có nhiều sáng tác mang âm hưởng dân ca rất thành công. Khá bận rộn với vai trò Giám đốc Trung tâm Bảo vệ quyền tác giả âm nhạc Việt Nam, Phó Đức Phương vẫn không quên hoạt động sáng tạo âm nhạc. Anh là một trong số các nhạc sĩ Việt Nam được giải thưởng Nhà nước.
Cho đến nay, một câu hỏi lớn của khoa học về âm nhạc vẫn là: liệu âm nhạc thuần túy có khả năng khơi gợi những cảm xúc trong con người như cách mà các sự vật, hiện tượng, diễn biến trong cuộc sống hằng ngày tác động lên chúng ta hay không, và nếu có thì cơ chế tác động đó như thế nào?
Ngày 15/5/2014, tại TP Vinh đã diễn ra hội thảo “Bảo tồn và phát huy giá trị dân ca trong xã hội đương đại (Trường hợp dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh)” do Viện VHNT Việt Nam phối hợp với hai tỉnh Nghệ An – Hà Tĩnh tổ chức.
DƯƠNG BÍCH HÀ
Để chào mừng kỷ niệm 60 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954 - 7/5/2014), sáng 7/5/2014, tại Học viện Âm nhạc Huế, khoa Sáng tác - Lý luận - Chỉ huy đã tổ chức vòng chung khảo, lễ tổng kết, báo cáo và trao giải thưởng cho cuộc thi sáng tác ca khúc về Điện Biên.
Trong thế giới âm nhạc, không ít nghệ sỹ thành công trên cả hai lĩnh vực, độc tấu và chỉ huy, nhưng ít có trường hợp nào lên tột đỉnh vinh quang như Daniel Barenboim.
HOÀNG DIỆP LẠC
Mỗi con người thấy sự vật theo góc nhìn riêng của mình, như trong câu chuyện ngụ ngôn “Những người mù sờ voi”.
Nhân kỷ niệm 90 năm ngày sinh nhạc sĩ Văn Cao (15/11/1923-15/11/2013), đêm nhạc đặc biệt giới thiệu những tác phẩm âm nhạc tiêu biểu nhất của nhạc sĩ Văn Cao sẽ diễn ra vào tối 22/11 tới tại Cung văn hóa hữu nghị Việt Xô, Hà Nội.
Nhạc và lời: NGUYỄN VIỆT