Mối liên hệ giữa âm nhạc và cảm xúc

14:47 04/07/2014

Cho đến nay, một câu hỏi lớn của khoa học về âm nhạc vẫn là: liệu âm nhạc thuần túy có khả năng khơi gợi những cảm xúc trong con người như cách mà các sự vật, hiện tượng, diễn biến trong cuộc sống hằng ngày tác động lên chúng ta hay không, và nếu có thì cơ chế tác động đó như thế nào?

Âm nhạc có ở khắp nơi. Hầu như mọi người, dù xuất xứ từ đâu và thuộc bất cứ nền văn hóa nào, đều ít nhiều được tiếp xúc với âm nhạc: trong nghi lễ cúng bái của một bộ tộc thổ dân, trong phòng hòa nhạc ở Berlin, ở khu mua sắm, trong đám ma, đám cưới... Không ai có thể phủ nhận rằng âm nhạc có khả năng tác động đến tâm trạng của con người. Chúng ta nghe nhạc để thư giãn khi bị căng thẳng, để cảm thấy phấn chấn cho một ngày mới v.v. Thậm chí âm nhạc còn được sử dụng để thao túng cảm xúc của con người, ví dụ như trong phim ảnh (âm nhạc rùng rợn cho những cảnh phim kinh dị, hay âm nhạc buồn bã cho những bi cảnh) và trị liệu.

Những trải nghiệm âm nhạc diễn ra trong thực tế rất đa dạng và phức tạp, phụ thuộc vào vô vàn các yếu tố như địa điểm, hoàn cảnh, tâm trạng sẵn có của người nghe, ngôn từ và hình ảnh đi kèm âm nhạc, v.v. Cùng một lúc, các yếu tố này tác động lên tâm trạng của người nghe. Vậy nếu bỏ qua các yếu tố khác thì âm nhạc thuần túy có sức ảnh hưởng đến đâu đối với cảm xúc của chúng ta?

Hiện nay, câu trả lời vẫn còn đang được tranh cãi, bởi ngay cả khái niệm ‘cảm xúc’ cũng là một lĩnh vực nghiên cứu gây đau đầu cho các nhà khoa học và triết học. Các nhà nghiên cứu đã đưa ra những ý kiến và cách giải thích khác nhau về mối liên hệ giữa âm nhạc và cảm xúc con người. Cho đến nay, có hai làn ý kiến trái ngược đáng chú ý.

Các nhà nghiên cứu theo trường phái khoa học nhận thức (cognitivists) cho rằng âm nhạc chỉ có khả năng diễn đạt những cảm xúc mà người nghe có thể nhận ra chứ không trực tiếp cảm thấy được. Điều này cũng tương tự như việc ta có thể nhận ra quả táo được vẽ trong một bức tranh nhưng không thể cắn và nếm nó. Nhà triết học âm nhạc người Mỹ Peter Kivy (1980) đưa ra giả thuyết rằng những rung động mà âm nhạc gây ra trong chúng ta khác với những cảm xúc trong các tình huống ở đời thực. Giả thuyết này có vẻ hợp lý, bởi ví dụ khi ta nghe một khúc nhạc buồn, cảm giác “buồn” mà khúc nhạc đem lại sẽ không giống như cảm giác buồn mà ta cảm thấy trước một sự việc thực trong cuộc sống (một người có thể thích cảm giác buồn bã khi nghe một khúc nhạc nhưng ít ai lại thích cảm xúc đó trong đời thực). Giả thuyết này dựa trên quan điểm của dòng khoa học nhận thức rằng cảm xúc nhất thiết phải có mục đích. Ví dụ, khi một người bắt gặp một con rắn, não bộ sẽ đánh giá nhận thức rằng đây là một mối nguy hiểm và chuyển sang trạng thái sợ hãi. Từ đó có thể suy luận: vì âm nhạc không có mục đích trực tiếp liên quan đến các chức năng sống còn của con người, nó không thể gây ra những cảm xúc cơ bản (vui, buồn, sợ hãi, giận dữ, bất ngờ, căm ghét) như được khơi dậy từ các tình huống đời thực. Kivy cho rằng người nghe thường áp nhầm vào bản thân những cảm xúc mà họ nhận ra trong những đặc tính biểu cảm của âm nhạc. Tuy vậy, khó có thể chứng minh được giả thuyết này bằng những nghiên cứu thực nghiệm, bởi chưa có phương pháp khách quan, đáng tin cậy nào có thể đánh giá xem một người có đang thực sự trải qua một cảm xúc nào đó không.

Ngược lại, những nghiên cứu thực nghiệm gần đây lại đưa ra bằng chứng về những phản ứng sinh lý (Krumhansl, 1997) và sự kích thích hoạt động não bộ (Blood&Zattore, 2001) ở con người khi nghe nhạc, từ đó chỉ ra rằng âm nhạc có thể thực sự khơi gợi cảm xúc trong người nghe. Nhìn nhận từ một góc độ khác với Kivy, các nhà nghiên cứu gần đây có xu hướng định nghĩa ‘cảm xúc’ như một hiện tượng bao gồm các sự tương tác giữa bộ não, tâm trí và cơ thể. Bởi vậy, cảm xúc bao hàm không chỉ quá trình nhận thức mà còn thể hiện ở cả những thay đổi sinh lý và những hành động biểu cảm của con người (Juslin, 2010). Cũng dùng ví dụ về con rắn ban nãy, não bộ người đó không chỉ đánh giá nhận thức mà còn kích hoạt chất Adrenalin vào mạch máu, gây ra thay đổi sinh lý là tim đập nhanh hơn. Người đó, cảm nhận được nỗi sợ hãi, sẽ có thể hét lên và chạy đi (hành động biểu cảm).

Cách nhìn nhận này giúp các nhà nghiên cứu có thể khảo sát những phản ứng của người nghe trước âm nhạc một cách khách quan hơn so với việc dựa vào những miêu tả chủ quan về cảm xúc từ phía người nghe. Các thí nghiệm đã chỉ ra rằng âm nhạc có thể tạo ra những phản ứng sinh lý tương tự như những phản ứng gây ra bởi các tác nhân kích thích cảm xúc khác, bao gồm các thay đổi về nhịp tim, thân nhiệt, huyết áp, v.v. Các bằng chứng khác như hành động biểu cảm, được xác định qua sự quan sát và đo đạc bằng điện cơ đồ các cử động cơ mặt (Witvliet & Vrana, 2007) cũng củng cố điều này.

Cơ chế gì?

Câu hỏi mang tính triết học về khả năng khơi dậy cảm xúc đời thực của âm nhạc đối với con người có thể được làm sáng tỏ hơn nếu chúng ta tìm hiểu về các cơ chế mà thông qua đó âm nhạc tác động lên con người, xem các cơ chế ấy có giống như các cơ chế gây ra cảm xúc của chúng ta trong đời thường không.

Kivy giải thích âm nhạc có khả năng tác động đến cảm xúc của con người là bởi nó có những đặc điểm tương đồng với những đặc điểm của các hành vi mang tính cảm xúc của con người và đưa ra thuyết cơ chế tương đồng về diễn biến (contour mechanism of resemblance). Theo thuyết này, cấu trúc động lực (dynamic structure) của âm nhạc, ví dụ như những hướng diễn biến lặp lại của cao trào và thư giãn trong tốc độ, âm lượng và dòng chảy của giai điệu thể hiện một sự tương đồng về cấu trúc với những cử động, dáng dấp và cách ứng xử của con người. Ví dụ như một giai điệu chậm, liền mạch và đi xuống có cấu trúc tương đồng với tiếng thở dài.

Kivy phân biệt hai dạng tương đồng: tương đồng trong diễn biến và tương đồng theo tục lệ. Diễn biến chỉ mối liên hệ tự nhiên giữa âm nhạc và cảm xúc, ví dụ như tiết tấu nhanh truyền đạt tự nhiên trạng thái phấn khích bởi nó có cấu trúc tương đồng với sự năng động của một người đang phấn khích. Tục lệ chỉ ‘sự liên tưởng theo thói quen một số những đặc điểm cụ thể của âm nhạc với những đặc điểm của cảm xúc’, ví dụ như theo tục lệ, giọng thứ biểu đạt nỗi buồn và sự tiêu cực trong khi giọng trưởng thường diễn tả sự vui vẻ. Dù giới nghiên cứu đánh giá sự phân loại này của Kivy còn nhiều vấn đề nhưng thuyết cơ chế tương đồng của Kivy rất có giá trị trong việc giải thích mối quan hệ mang tính biểu trưng giữa âm nhạc và cảm xúc. Tuy nhiên, các nhà khoa học cũng phản bác rằng chỉ dùng cơ chế tương đồng thì không đủ để âm nhạc truyền đạt cảm xúc, bởi theo cơ chế đó thì âm nhạc cũng có thể có cấu trúc tương đồng với bất kỳ các diễn biến động lực nào khác trong cuộc sống chứ không chỉ có cảm xúc con người (Thompson, 2009).

Dựa vào những lý thuyết đi trước và những nghiên cứu gần đây về sự đa yếu tố trong việc kích hoạt cảm xúc, Juslin và Vastjall (2008) đã xây dựng một thuyết đa cơ chế toàn diện hơn, xác định ra bảy cơ chế cốt yếu cùng chịu trách nhiệm trong việc khơi dậy cảm xúc trong con người của âm nhạc.

Phản xạ cuống não (brain stem reflex): khi những thuộc tính âm thanh của âm nhạc được cuống não tiếp nhận như một sự báo hiệu, ví dụ như những âm thanh to, đột ngột, không thuận tai hoặc thay đổi nhịp điệu liên tục trong âm nhạc. Cơ chế này diễn ra vô thức và chỉ có thể gợi lên sự kích thích chứ không gây ra cảm xúc cụ thể.

Sự đồng bộ hóa tiết tấu cơ thể với tiết tấu âm nhạc (rhythmic entrainment): âm nhạc với những nhịp điệu mạnh (như nhạc techno) hay đều đều (như nhạc cúng bái) có thể ảnh hưởng đến một nhịp điệu của cơ thể, điển hình là nhịp tim, và tạo cho người nghe cảm giác được kích thích hoặc bị thôi miên.

Phản ứng có điều kiện từ việc đánh giá và liên hệ (evaluative conditioning): theo cơ chế này, một khúc nhạc, bài hát liên tục gắn với một sự việc tích cực hay tiêu cực cụ thể sẽ có khả năng gợi ra trong chúng ta những cảm xúc vui hay buồn kể cả trong một tình huống mới. Đây là một quá trình vô thức, không chủ đích và không cần cố gắng.

Sự lây cảm xúc (emotional contagion): khi nhận biết được một diễn đạt cảm xúc nào đó trong âm nhạc, chúng ta tự mình “bắt chước” nó. Cơ chế này do Juslin và Vastjall đưa ra có vẻ gần với giả thuyết của Kivy. Điểm khác nhau là họ cho rằng không phải chúng ta “nhận nhầm” cảm xúc đó cho mình, mà chúng ta thực sự bị lây cảm xúc đó. Tuy nhiên cơ chế “lây” cũng chưa được họ làm rõ.

Hình ảnh thị giác (visual imagery): khi âm nhạc khiến người nghe tưởng tượng ra những hình ảnh (như overture Hebrides của Mendelssohn thường gợi lên hình ảnh kì vỹ của các hang động trên biển). Những hình ảnh này có khả năng tác động đến con người như các tác nhân kích thích cảm xúc trong đời sống hằng ngày. Ví dụ một giai điệu chuyển động hướng lên cao trào có thể gợi trong người nghe hình ảnh mình đang được bay lên cao, dẫn đến cảm giác hưng phấn.

Kí ức tự truyện (episodic memory): âm nhạc khơi dậy trong người nghe cảm xúc về một kỉ niệm bởi nó gắn với sự kiện đó. Thậm chí cả những phản ứng sinh lý của cảm xúc trong tình huống cũ cũng có thể được lưu lại trong trí nhớ và được khúc nhạc khơi dậy lại. Có lẽ rất nhiều người trong chúng ta từng trải nghiệm cảm xúc kiểu này với âm nhạc. Cơ chế này cũng diễn giải vì sao âm nhạc hay làm người ta cảm thấy hoài cổ và nghĩ về quá khứ.

Sự mong đợi (expectancy): cảm xúc được khơi dậy khi một nét nào đó của khúc nhạc phá vỡ, trì hoãn hoặc củng cố những trông đợi của người nghe về diễn biến tiếp theo của khúc nhạc. Cơ chế này phụ thuộc vào những trải nghiệm sẵn có của người nghe về các phong cách âm nhạc quen thuộc với họ. Ví dụ như những người quen với nhạc âm nguyên (diatonic) sẽ có xu hướng trông đợi đoạn nhạc kết thúc ở âm chủ (tonic) bởi nó đem lại cảm giác thỏa mãn, và ngược lại sẽ cảm thấy bất ổn không yên nếu nó không kết thúc như vậy.

Những chứng minh, lý giải trên đã phần nào khẳng định âm nhạc có thể ảnh hưởng đến cảm xúc - một trong những phạm trù khó hiểu và nhạy cảm nhất của con người. Âm nhạc có khả năng gợi ra trong con người một số cảm xúc giống như trong đời thực thông qua một loạt các cơ chế khác nhau. Tuy vậy, vẫn còn rất nhiều câu hỏi cần làm rõ. Ví dụ như giới hạn những cảm xúc mà âm nhạc có thể khơi dậy là gì (chúng ta có thể cảm thấy căm ghét bởi âm nhạc không); khả năng bị tác động bởi âm nhạc của mỗi người khác nhau như thế nào; liệu còn có những cơ chế tác động khác chưa được tìm ra không... Những câu hỏi này không chỉ thúc đẩy các nhà khoa học tiếp tục đào sâu nghiên cứu mà còn quyến rũ cả những người nghe nhạc bình thường như chúng ta, khiến chúng ta tò mò và có ý thức hơn trong những trải nghiệm âm nhạc của mình.

Nguồn: Khánh Minh - Tia Sáng


---
Tài liệu tham khảo

Juslin, P. N. and Västfjäll, D. (2008) “Emotional responses to music: The need to consider underlying mechanisms”, Behavioral and Brain Sciences 31, pp. 559-621

Juslin, P. N. (2009) “Music and Emotion: Seven Questions, Seven Answers”. International Conference on Music and Emotion, Durham, UK

Thompson, W. (2009) Music, thought and feeling: understanding the psychology of music. Oxford: Oxford University Press

http://www.mus.cam.ac.uk/~ic108/IBMandS/emotion/musicemotion.html

http://en.wikipedia.org/wiki/Emotion

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • VĂN CAO

    Sau triển lãm Duy nhất 1944 (Salon Unique), tôi về một căn gác hẹp đầu phố  Nguyễn Thượng Hiền.

  • TRƯƠNG QUANG LỤC  

    Lần đầu tiên tôi quen biết nhạc sĩ Tôn Thất Lập là tại thành phố Hồ Chí Minh sau ngày thống nhất đất nước. 

  • DƯƠNG BÍCH HÀ

    Miền núi phía Tây Bắc huyện Minh Hóa ở Quảng Bình có nhiều nhóm tộc người cùng sinh sống như nhóm người Mày, Rục, Sách, Mã Liềng, A Rem (gọi chung là tộc người Chứt), và tộc người Nguồn (trước kia gọi là người bản địa Kẻ Sạt, Kẻ Xét, Kẻ Trem, Kẻ Pôộc bộ Việt Thường, nước Văn Lang).

  • TRÀ AN    

    Người ta gọi Trịnh Công Sơn là Sứ giả tình yêu, Kẻ du ca về phận người, hay Người tình mọi thế hệ… nhưng có lẽ với tên gọi mà nhạc sĩ Văn Cao đặc biệt yêu mến dành tặng ông: “Con người thi ca” thì chức danh ấy phù hợp hơn cả.

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG  

    I. Vài nét về dân ca Tà Ôi
    Trong hệ thống phân loại, dân ca Tà Ôi có đến 9 làn điệu gồm: Cà lơi, Ba bói, Cha chấp, Xiềng, Ân tói, Babởq, Ra rọi, Roin, Ru akay. Mỗi làn điệu đều có những quy định, cách thức thể hiện khác nhau.

  • Hoàng Nguyễn hiện là giảng viên thanh nhạc Trường Cao đẳng Nghệ thuật Huế. Anh bước vào nghề hát từ năm 1968. Từ 1973 đến 1978 học thanh nhạc Nhạc Viện Hà Nội, sau đó chuyển về giảng dạy ở trường âm nhạc Huế. Năm 1981 đến 1985 học thanh nhạc tại Bungari. Với kỹ thuật thanh nhạc điêu luyện, Hoàng Nguyễn đã góp phần quan trọng vào thành công buổi trình diễn thanh nhạc Thính phòng đầu tiên tại Hội văn nghệ Thừa Thiên - Huế.

  • NGUYÊN CÔNG HẢO  

    Sau Đại hội tháng 01 năm 2013, vừa ổn định xong công việc tôi được nhạc sĩ Nguyễn Trung, Chi hội trưởng Chi hội Âm nhạc của tỉnh Bắc Ninh mời đi dự chương trình Liên hoan âm nhạc các tỉnh, thành phố kết nghĩa tại thành phố Huế vào tháng 4 năm 2013.

  • NGUYỄN XUÂN HOA

    Tại Diễn đàn Nghệ thuật Châu Á - Thái Bình Dương (Forum of Asian and Pacific Performing Art) năm 1996 ở Hyogo, Nhật Bản, những nhạc công Nhã nhạc Huế đã có các buổi giao lưu, cùng biểu diễn với Nhã nhạc Nhật Bản; đồng thời một số nhà nghiên cứu Nhã nhạc của hai nước cũng đã có dịp trao đổi về mối quan hệ giữa Nhã nhạc Á Đông (Gagakư Nhật Bản, Ahak Hàn Quốc, Yayue Trung Hoa và Nhã nhạc Việt Nam).

  • Thất lạc suốt 150 năm - và bị hiểu lầm là tác phẩm của em trai bà – một bản nhạc táo bạo và phức tạp của Fanny Mendelssohn mới đây đã nhận được sự chú ý xứng đáng dù muộn màng. Hậu duệ cách bà sáu thế hệ kể lại câu chuyện.

  • Theo thông tin mới nhận được từ phía Cục NTBD, ca khúc “Nối vòng tay lớn” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã chính thức được cấp phép lưu hành và phổ biến rộng rãi trên toàn quốc.

  • Gần 1 tháng, sau khi Cục Nghệ thuật biểu diễn (NTBD) có công văn yêu cầu tạm dừng lưu hành 5 ca khúc sáng tác trước năm 1975, công chúng yêu nhạc vẫn chưa hết băn khoăn. Mới đây, việc tìm thấy bản gốc ca khúc “Con đường xưa em đi” lại càng khiến dư luận băn khoăn hơn: Mất bao lâu để nhà quản lý hoàn tất việc đối chiếu giữa bản gốc và dị bản của ca khúc? Sau sự việc này, việc xác minh dị bản ca khúc nói chung sẽ được thực hiện ra sao?

  • Bà Kha Thị Đàng - vợ cố nhạc sỹ Châu Kỳ đã bật mí về con đường mòn xuyên qua một cánh đồng lúa mà bà cho rằng chính con đường này đã tạo cảm hứng cho chồng bà và nhà thơ Hồ Đình Phương viết lên ca khúc “Con đường xưa em đi”.

  • Nói đến văn hóa Quảng Bình, không thể không nhắc đến hò khoan Lệ Thủy. Với lối hát dung dị, mộc mạc và gần gũi, làn điệu dân ca này là món ăn tinh thần bao đời nay của người dân nơi đây. Những ngày qua, hò khoan Lệ Thủy đã vang lên giữa Thủ đô, tạo điểm nhấn trong chương trình “Quảng Bình trong lòng Hà Nội”.

  • Vừa qua UNESCO đã chính thức ghi danh công nhận di sản “Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt” là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.

  • Từng đứng trước nguy cơ mai một, nhưng giờ đây, những làn điệu Then không chỉ đã dần tìm lại được chỗ đứng của mình mà còn đang trên hành trình trở thành di sản văn hóa của nhân loại. Đó chính là kết quả của sự nỗ lực không ngừng của các cấp, chính quyền và các nghệ nhân, những người tâm huyết với Then.

     

  • Erik Satie (1866-1925) được các nhà nghiên cứu lịch sử âm nhạc ngợi ca vì đã có công mở đường tới chủ nghĩa tối giản trong âm nhạc cổ điển từ trước Chiến tranh thế giới lần thứ nhất.

  • Cục trưởng Cục Nghệ thuật biểu diễn giải thích việc gửi văn bản gửi Sở VH-TT TP HCM yêu cầu tạm dừng lưu hành 5 bài hát đã cấp phép phổ biến để hướng dẫn các tổ chức, cá nhân thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật về quyền tác giả và quyền liên quan.