Xin tạ ơn người tình xứ Huế

14:43 23/07/2012

NGUYỄN ĐẮC XUÂN 

Đêm giới thiệu Trường ca Hàn Mặc Tử, tại Học viện Âm nhạc Huế thầy Trần Văn Khê và nhạc sĩ Phạm Duy đã đưa chúng ta đi từ cõi thực mộng mơ trải qua những đau đớn, vật lộn với cơn đau đến ngất lịm và cuối cùng nương tựa vào niềm tin tâm linh để hiện hữu.

NS Phạm Duy và GSTS Trần Văn Khê

Qua cuộc giới thiệu, không những nhạc sĩ Phạm Duy giảng giải ca ngợi Hàn Mặc Tử mà còn có các con ông như Duy Quang, Duy Cường, Thái Hiền, Thái Thảo và người con rể Tuấn Ngọc đóng góp toàn bộ phần hát minh họa hết sức xuất sắc. Cả đại gia đình họ Phạm ngợi ca Hàn Mặc Tử. Sự kiện âm nhạc chưa từng có này diễn ra bên bờ sông Hương của thành phố Huế - thành phố được mệnh danh là đất Thần kinh (le Capital Merveilleux). Kỷ niệm 100 năm ngày sinh Hàn Mặc Tử được tổ chức nhiều nơi, vào nhiều thời điểm trong năm 2012, nhưng theo tôi khó có một cuộc kỷ niệm nào có thể hội tụ được những nhân vật văn hóa lớn như cuộc giới thiệu Trường ca Hàn Mặc Tử hôm đó.

Giáo sư Tiến sĩ Trần Văn Khê - người chắt ngoại của danh tướng Nguyễn Tri Phương ở Thừa Thiên Huế, là người thầy đã giúp cho sự sưu tầm, nghiên cứu, đào tạo nhiều thế hệ ca sĩ, nhạc sĩ, đặc biệt là ngành ca nhạc truyền thống Huế. Tất cả những hoạt động đưa âm nhạc Huế ra thế giới trong hơn nửa thế kỷ qua đều có sự vận động giúp đỡ của Thầy.

Nhạc sĩ Phạm Duy, người đã gắn bó với Huế từ lúc tôi mới 8 tuổi (1944), nay tôi cũng đã 75 tuổi - quá tuổi cổ lai hy từ lâu rồi, có nghĩa là Huế đã có trong Phạm Duy đã gần 70 năm. Là một người cầm bút xứ Huế, trong hồ sơ nghiên cứu Huế của tôi, cho tôi biết nhạc sĩ Phạm Duy đã đến Huế nhiều lần và ông đã để lại cho kho tàng Tân nhạc Việt Nam nhiều nhạc phẩm viết từ Huế và viết về Huế. Xin nêu một số ví dụ sau đây:

Lần thứ nhất: Vào mùa Xuân năm 1944, từ Hà Nội nhạc sĩ đến Huế với tư cách là một ca sĩ trong Gánh hát Đức Huy Charlot Miều. Gánh hát dừng chân tại rạp Tân Tân trước chợ Đông Ba. Lần đó, ông có dịp gặp kịch sĩ Vũ Đức Duy, nhạc sĩ Vĩnh Phan, ông Ngũ Đại (tức hoàng tử Vĩnh Trân, con trai của vua Thành Thái), nhạc sĩ Ngô Ganh, nhạc sĩ Văn Giảng, nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương, v.v. Đêm đêm các nhạc sĩ Huế đưa ông xuống ngủ đò trên sông Hương và nghe các cô Bích Liễu (phu nhân của Vĩnh Phan), cô Minh Mẫn ca Huế. Lần đầu tiên nhạc sĩ Phạm Duy bắt gặp được cái đẹp trong những câu hò, câu hát của Huế. Ông phát hiện ra âm giai ngũ cung lơ lớ của Huế. Về sau ông đã vận dụng dân nhạc Huế với âm giai ngũ cung lơ lớ vào các ca khúc trong phần vào miền Trung của trường ca Con đường cái quan.

Lần thứ hai: Sau Cách mạng Tháng 8, vào khoảng cuối tháng 10/1946, trên đường từ miền Nam ra Hà Nội, nhạc sĩ đã dừng chân ở Huế. Ông gặp nữ ca sĩ Tuyết mới vào nghề (sau là ca sĩ Ngọc Cẩm phu nhân của nhạc sĩ Nguyễn Hữu Thiết), ông đến hát ở Quán Nghệ Sĩ của ông bà Quốc Thành. Quán này được họa sĩ Phạm Đăng Trí trang trí rất đẹp. Ở đây Phạm Duy cùng hát với Bùi Công Kỳ - một người bạn của nhạc sĩ Đặng Thế Phong. Ông gặp lại thi sĩ Lưu Trọng Lư và được mời về nhà nghe cô Tôn Nữ Thị Mừng (Lệ Minh) đánh đàn tranh. Phạm Duy phổ nhạc bài thơ Tiếng thu của Lưu Trọng Lư. Đêm về, nhạc sĩ được mời làm việc với các ông Tố Hữu, Hải Triều, Nguyễn Chí Thanh. Phạm Duy được mời hát ở Đài Phát thanh Huế với các bài Gươm tráng sĩ, Chiến sĩ vô danh, Xuất quân được quần chúng cách mạng ở Huế tán thưởng. Nhạc sĩ gặp Kiều Miên - một nữ sinh trường Đồng Khánh yêu kiều diễm lệ đang nổi tiếng với hát bài Giọt mưa thu. Đặc biệt nhạc sĩ được gặp một người con gái đẹp trên đường Nam Giao. Nàng được xem như một Mỵ Nương ở trần thế và nhạc sĩ được làm Trương Chi, để rồi mối tình đó đã để lại cho Huế một bài hát nổi tiếng là Khối tình Trương Chi.

Lần thứ 3: Sau ngày toàn quốc kháng chiến hơn một năm, nhạc sĩ Phạm Duy hoạt động trong Đoàn Văn nghệ của Trung đoàn 304. Ông cùng kịch sĩ Bửu Tiến, ca sĩ Ngọc Khanh, ca sĩ Vĩnh Cường (người vừa mất cách đây mấy năm) và một số đội viên khác tình nguyện vào chiến trường Bình Trị Thiên. Khi vào chiến khu Ba Lòng, nhạc sĩ gặp các ông Hà Văn Lâu, Hoàng Trọng Khanh. Nhạc sĩ được tổ chức đưa về Đại Lược ven sông Ô Lâu ở phía bắc Huế, rồi bí mật đưa vô hát ở cầu ngói Thanh Toàn, có hôm lên đến vùng ven Huế ở cầu Ông Thượng thuộc làng Lại Thế sát với làng Vỹ Dạ. Tiểu đội vũ trang dẫn đường và bảo vệ ông có anh Vệ quốc đoàn trẻ Phùng Quán - sau này trở thành nhà văn nổi tiếng gốc Huế. Thực tế của chuyến đi lịch sử này đã giúp cho ông sáng tác được ba bài nhạc bất hủ với tựa đề Bao giờ anh lấy được đồn Tây, Bà mẹ Gio Linh, Về miền Trung. Nhờ ba bài nhạc này Phạm Duy không những được tiếng là một nhạc sĩ kháng chiến xuất sắc mà ông còn được tình yêu của ca sĩ Thái Hằng - người vợ mà ông xem như một bậc “bậc Á Thánh” của ông sau đó. Cảm hứng ông thu được trong chuyến đi Bình Thị Thiên năm 1948, ông dùng để sáng tác ba bài hát nêu trên, ngoài ra Phạm Duy còn dành để viết các bài Tình nghèo, Người về, Bà mẹ quê, đặc biệt là bài Mười hai lời ru viết về 12 bà mẹ đã bị giặc Pháp giết rất đau đớn (tiếc là bài này thất truyền).

Lần thứ 4: Năm 1953, vào một đêm hè êm ả gợi lên cảnh huyền ảo tuyệt vời của xứ Huế, ông viết bài Dạ lai hương để tặng hai người đẹp nổi tiếng ở Huế lúc ấy là Thu Vân và Dạ Thảo.

Trên đây là những gì tôi biết được qua tư liệu.
 

Bìa album Trường ca Mẹ Việt Nam Con đường cái quan


Từ đầu những năm sáu mươi, như tôi đã viết trong Tự truyện từ Phú Xuân đến Huế, tôi may mắn được gần nhạc sĩ Phạm Duy trong hầu hết những lần nhạc sĩ ra Huế để giới thiệu Trường ca Con đường cái quan với sinh viên Đại học Huế, giới thiệu Dân nhạc Việt phát triển với Huế, giới thiệu Trường ca Mẹ Việt Nam, sáng tác bài Tôi còn yêu tôi cứ yêu, hát Tâm Ca, hát Tâm Phẫn Ca chống chiến tranh của Mỹ mà trong đó có một vài bài nhạc sĩ phổ thơ của Thái Luân, thơ của tôi (các bài Bi hài kịch, Để lại cho em, Nhân danh, Chuyện hai người lính) v.v.. Cuộc tranh đấu mùa hè năm 1966 bị dìm trong máu, tôi thoát ly theo kháng chiến tiếp tục con đường đấu tranh để thống nhất đất nước mà nhạc sĩ đã gieo vào lòng tôi từ sau ngày tôi được nghe Con đường cái quan, Mẹ Việt Nam ở sân trường Đại học Huế.

Và cũng không cần phải tra cứu, những người yêu nhạc Phạm Duy cũng có thể kể thêm những nhạc phẩm Phạm Duy đã soạn cho Huế ngoài những bản tôi vừa nêu trên. Đó là những đoản khúc vào Miền Trung trong trường ca Con đường cái quan phần lớn dành cho Huế. Đặc biệt là đoản khúc Nước non ngàn dặn ra đi rất nổi tiếng trong mọi thời kỳ. Rồi nhiều đoản khúc khác trong Trường ca Mẹ Việt Nam cũng thế. Trong Dị khúc gồm những bài Phạm Duy phổ thơ Bích Khê có thêm bài Huế đa tình, hay bài Đây thôn Vỹ Dạ phổ thơ Hàn Mặc Tử.

Như nhiều lần tôi đã viết, tôi lớn lên đã chịu ảnh hưởng rất lớn bởi tình tự dân tộc trong bài Tình ca của Phạm Duy. Và không những tôi mà nhiều người thế hệ tôi đều rất thú vị với câu hát Phạm Duy đã “Biết ái tình ở dòng sông Hương”. Chính vì chút lịch sử đó nên tôi mạo muội đặt tên cho lời cám ơn này là Tạ ơn người tình xứ Huế.

Nhân sinh nhật năm 92 tuổi, thầy Trần Văn Khê, cũng như nhạc sĩ Phạm Duy bảo tôi rằng “Tới tuổi này không còn tính tháng, tính tuần nữa mà phải tính ngày”. Đúng như thế. Năm nay tôi mới 76 tuổi ta, nhỏ hơn các vị đến 16 tuổi, thế mà có lúc ra đường tôi phải chống gậy, nhiều người lứa tuổi tôi đang nằm uống nước bằng ống hút và cũng đã có nhiều người không còn gặp nhau nữa. Vì thế tôi rất mừng còn được gần hai ông. Tôi cầu mong các ông sống trên trăm tuổi. Tuy nhiên, tôi vẫn đề phòng, biết đâu… cho nên có ý kiến gì, có việc gì cần làm tôi phải làm ngay.

Theo nhận định của những người bạn Cố đô Huế trên cả nước: với tấm lòng của nhạc sĩ Phạm Duy đã dành cho Huế như thế, với khối lượng nhạc phẩm lớn lao của nhạc sĩ Phạm Duy dành cho Huế như thế (dù tôi chưa đủ thì giờ nêu cho hết), tôi xin kiến nghị với chính quyền Thừa Thiên Huế, Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế, Hội Nhạc sĩ Thừa Thiên Huế nên kính mời nhạc sĩ Phạm Duy làm một Hội viên danh dự của Hội Nhạc sĩ Thừa Thiên Huế. Chuyện Phạm Duy dành cho Huế đã là chuyện lịch sử, nếu kiến nghị của tôi được chấp nhận thì đây là một sự kiện quý báu của Thừa Thiên Huế dành cho nhạc sĩ lão thành Phạm Duy. Và, nếu kiến nghị của chúng tôi được hoan nghinh, thì cũng kính xin nhạc sĩ Phạm Duy nhận lời để nhạc sĩ đời đời là người tình của xứ Huế.

N.Đ.X
(SH281/7-12)






 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • VĂN CAO

    Sau triển lãm Duy nhất 1944 (Salon Unique), tôi về một căn gác hẹp đầu phố  Nguyễn Thượng Hiền.

  • TRƯƠNG QUANG LỤC  

    Lần đầu tiên tôi quen biết nhạc sĩ Tôn Thất Lập là tại thành phố Hồ Chí Minh sau ngày thống nhất đất nước. 

  • DƯƠNG BÍCH HÀ

    Miền núi phía Tây Bắc huyện Minh Hóa ở Quảng Bình có nhiều nhóm tộc người cùng sinh sống như nhóm người Mày, Rục, Sách, Mã Liềng, A Rem (gọi chung là tộc người Chứt), và tộc người Nguồn (trước kia gọi là người bản địa Kẻ Sạt, Kẻ Xét, Kẻ Trem, Kẻ Pôộc bộ Việt Thường, nước Văn Lang).

  • TRÀ AN    

    Người ta gọi Trịnh Công Sơn là Sứ giả tình yêu, Kẻ du ca về phận người, hay Người tình mọi thế hệ… nhưng có lẽ với tên gọi mà nhạc sĩ Văn Cao đặc biệt yêu mến dành tặng ông: “Con người thi ca” thì chức danh ấy phù hợp hơn cả.

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG  

    I. Vài nét về dân ca Tà Ôi
    Trong hệ thống phân loại, dân ca Tà Ôi có đến 9 làn điệu gồm: Cà lơi, Ba bói, Cha chấp, Xiềng, Ân tói, Babởq, Ra rọi, Roin, Ru akay. Mỗi làn điệu đều có những quy định, cách thức thể hiện khác nhau.

  • Hoàng Nguyễn hiện là giảng viên thanh nhạc Trường Cao đẳng Nghệ thuật Huế. Anh bước vào nghề hát từ năm 1968. Từ 1973 đến 1978 học thanh nhạc Nhạc Viện Hà Nội, sau đó chuyển về giảng dạy ở trường âm nhạc Huế. Năm 1981 đến 1985 học thanh nhạc tại Bungari. Với kỹ thuật thanh nhạc điêu luyện, Hoàng Nguyễn đã góp phần quan trọng vào thành công buổi trình diễn thanh nhạc Thính phòng đầu tiên tại Hội văn nghệ Thừa Thiên - Huế.

  • NGUYÊN CÔNG HẢO  

    Sau Đại hội tháng 01 năm 2013, vừa ổn định xong công việc tôi được nhạc sĩ Nguyễn Trung, Chi hội trưởng Chi hội Âm nhạc của tỉnh Bắc Ninh mời đi dự chương trình Liên hoan âm nhạc các tỉnh, thành phố kết nghĩa tại thành phố Huế vào tháng 4 năm 2013.

  • NGUYỄN XUÂN HOA

    Tại Diễn đàn Nghệ thuật Châu Á - Thái Bình Dương (Forum of Asian and Pacific Performing Art) năm 1996 ở Hyogo, Nhật Bản, những nhạc công Nhã nhạc Huế đã có các buổi giao lưu, cùng biểu diễn với Nhã nhạc Nhật Bản; đồng thời một số nhà nghiên cứu Nhã nhạc của hai nước cũng đã có dịp trao đổi về mối quan hệ giữa Nhã nhạc Á Đông (Gagakư Nhật Bản, Ahak Hàn Quốc, Yayue Trung Hoa và Nhã nhạc Việt Nam).

  • Thất lạc suốt 150 năm - và bị hiểu lầm là tác phẩm của em trai bà – một bản nhạc táo bạo và phức tạp của Fanny Mendelssohn mới đây đã nhận được sự chú ý xứng đáng dù muộn màng. Hậu duệ cách bà sáu thế hệ kể lại câu chuyện.

  • Theo thông tin mới nhận được từ phía Cục NTBD, ca khúc “Nối vòng tay lớn” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã chính thức được cấp phép lưu hành và phổ biến rộng rãi trên toàn quốc.

  • Gần 1 tháng, sau khi Cục Nghệ thuật biểu diễn (NTBD) có công văn yêu cầu tạm dừng lưu hành 5 ca khúc sáng tác trước năm 1975, công chúng yêu nhạc vẫn chưa hết băn khoăn. Mới đây, việc tìm thấy bản gốc ca khúc “Con đường xưa em đi” lại càng khiến dư luận băn khoăn hơn: Mất bao lâu để nhà quản lý hoàn tất việc đối chiếu giữa bản gốc và dị bản của ca khúc? Sau sự việc này, việc xác minh dị bản ca khúc nói chung sẽ được thực hiện ra sao?

  • Bà Kha Thị Đàng - vợ cố nhạc sỹ Châu Kỳ đã bật mí về con đường mòn xuyên qua một cánh đồng lúa mà bà cho rằng chính con đường này đã tạo cảm hứng cho chồng bà và nhà thơ Hồ Đình Phương viết lên ca khúc “Con đường xưa em đi”.

  • Nói đến văn hóa Quảng Bình, không thể không nhắc đến hò khoan Lệ Thủy. Với lối hát dung dị, mộc mạc và gần gũi, làn điệu dân ca này là món ăn tinh thần bao đời nay của người dân nơi đây. Những ngày qua, hò khoan Lệ Thủy đã vang lên giữa Thủ đô, tạo điểm nhấn trong chương trình “Quảng Bình trong lòng Hà Nội”.

  • Vừa qua UNESCO đã chính thức ghi danh công nhận di sản “Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt” là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.

  • Từng đứng trước nguy cơ mai một, nhưng giờ đây, những làn điệu Then không chỉ đã dần tìm lại được chỗ đứng của mình mà còn đang trên hành trình trở thành di sản văn hóa của nhân loại. Đó chính là kết quả của sự nỗ lực không ngừng của các cấp, chính quyền và các nghệ nhân, những người tâm huyết với Then.

     

  • Erik Satie (1866-1925) được các nhà nghiên cứu lịch sử âm nhạc ngợi ca vì đã có công mở đường tới chủ nghĩa tối giản trong âm nhạc cổ điển từ trước Chiến tranh thế giới lần thứ nhất.

  • Cục trưởng Cục Nghệ thuật biểu diễn giải thích việc gửi văn bản gửi Sở VH-TT TP HCM yêu cầu tạm dừng lưu hành 5 bài hát đã cấp phép phổ biến để hướng dẫn các tổ chức, cá nhân thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật về quyền tác giả và quyền liên quan.