BIỂN BẮC
Dẫn nhập
Chúng tôi nhớ trước đây - khi luận bàn về thơ, ở trên những vuông chiếu, hay bàn tròn hoặc ở sân diễn đàn thông tin giấy và điện tử - người ta thường hay đóng ấn cho những sáng tác “không ưa” rằng: đây là một bài viết có vần, là một bài vè chứ đâu phải thơ?!
Hình ảnh một Griots của châu Phi - Ảnh: internet
Chúng tôi thấy bây giờ - khi nhận xét về thơ, khi phản ánh về thơ tân hình thức (Việt) - người ta phóng ngay mũi luận đích vào nhiều những sáng tác thơ Tân Hình thức (THT): không có âm vần, thấy nó lùng bùng như là một bài nhạc Ráp[A], chứ đầu phải (vần(g)) thơ?! Thậm chí có nhiều người thực hành thơ THT, khi đánh giá chất THT của nhiều sáng tác, giơ bảng: là một bài Ráp, thiếu nhạc điệu/ nhạc tính, không phải là thơ THT!
Suy diễn như thế có vẻ khẳng khăng Ráp không có thể vần, âm vận, nhạc nhịp và hẳn nhiên không thể là thơ. Mà cho dẫu có vần cũng không hẳn là thơ vì có thể chỉ là vè.
Vì khuôn khổ của bài viết có hạn, nên chúng tôi chỉ chọn tô đậm đề tài Rap, tuy nhiên một cách tổng quan, để tìm câu trả lời cho câu hỏi:
Rap có phải là thơ không?
1. Ráp: Nghĩa và(o) Cội-Nguồn
Động từ Rap, theo Anh-ngữ Anh-Quốc có nghĩa là “Nói”[B] từ đầu thế kỷ 16 và dần dà biến nghĩa theo sự ảnh hưởng của Anh-ngữ Phi-Mỹ thành “Nói- chuyện”[C]. Thông thường thuật ngữ Rap được đề cập đến như là nói/hát một bài văn-bản (-có-vần) một cách nhịp nhàng/có giai điệu.
Rap có một lịch sử, truyền thống lâu đời ở Châu- Phi và thường được thực hiện bởi những Griot (một phiên bản Châu-Phi của kẻ hát-rong, người kể- chuyện và nhạc-sĩ hè-phố thời Trung cổ). Một Griot hoặc Djeli ở Tây-Phi là một nhà thơ, thi sĩ và nhạc sĩ, và được coi là một người truyền-khẩu và bảo-tồn truyền thống và lịch sử. Những huyền thoại, phong tục tập quán, du ký và những tin tức được những Djelis/Griots truyền khẩu từ bộ lạc này qua bộ lạc kia trong những đêm quây quần quanh đống lửa. Việc truyền khẩu này được thể hiện theo âm vần đi kèm với tiếng trống nhịp nhàng và điệu nhảy múa của những cặp nam nữ tuổi cập kê. Rap trong thời điểm này cũng ví như thể loại “ngôn từ nói”[D] và “thơ rập”[E] thời bây giờ[D-E].
Ngoài đề: những Griots thường tạo thành một tập thể với chế độ nội-hôn (có nghĩa rằng một Griot thường chỉ kết hôn với một Griot.
Những người châu Phi mang âm nhạc của mình theo với họ khi họ bị bắt nô-lệ đến lục địa mới (=Mỹ- Châu). Bắt nguồn từ những nhạc Châu-Phi được kết hợp với âm nhạc của những kẻ áp bức/bóc lột, dòng âm nhạc blues và gospel được hình thành và phát triển từ đó. Ở những dòng âm nhạc này, câu chuyện (kể) cũng nắm một vai trò rất quan trọng.
Để những công việc cực nhọc ở những đồn điền bớt phần nặng nề, những người nô-lệ hát xướng họa trong lúc làm việc. Một mặt khác, một số công việc được thực hiện dễ dàng hơn nếu có kèm theo một nhịp điệu nhất định và tuy nhiên bản thân những bài hát hò xướng họa ở mặt nghệ thuật đã có giá trị đẹp rồi. Hình ảnh hát xướng họa này tương tự như hát Hò, Lý, Quan-Họ, vân vân của Việt Nam. Ở nông thôn Việt Nam, những công việc như tát gàu sòng, gặt-đập-lúa, giã gạo vân vân cũng được trôi chảy và hào hứng thêm khi đi kèm với những âm-/ giai-điệu nhip nhàng.
Khi chế độ nô lệ đã bị bãi bỏ, những người nô lệ trước đây đã có thể đi lại “tự do hơn”. Tuy nhiên, sự phân-biệt-đối-xử vẫn tiếp tục tồn tại. Những người da đen vẫn còn rất bị áp bức trong cuộc sống. Ví dụ, họ vẫn còn bị cấm sử dụng những điều kiện cơ sở công cộng, họ không được làm một số công việc cụ thể. Điều này có nghĩa chủ yếu là họ phải làm những công việc với mức lương rất tồi. Bởi vậy, sau khi bãi bỏ chế độ nô lệ, người da đen vẫn còn sinh sống trong điều kiện nghèo nàn. Đối với một số người da đen, biểu diễn nghệ thuật trên đường phố để kiếm (thêm) thu nhập là một giải pháp để giảm sự nghèo nàn.
Reggae ở Jamaica phát sinh từ kỹ thuật ‘móc câu/lồng âm’[F]: một bài Rap được lột lọc trần âm thanh, với nhịp điệu cơ bản và những ngôn từ được móc-câu vào nhau thay thế những thứ đã được lột trần (chủ yếu là cung cấp hiệu lực âm-vang để những âm thanh kép được rõ hơn).
Nhạc Rap và Hip-hop từng bước được thành hình vào cuối những năm bảy mươi ở khu vực Bronx thuộc thành phố New York, trong những buổi liên hoan của những khu phố được tổ chức ngay trên các hè phố. Trên các đường phố của Bronx, những nghệ sĩ quay dĩa nhạc (DJ=Disc Jockey) cho ra đời những tái-chế-phẩm mới bằng cách sử dụng hai bàn máy hát dĩa cùng một lúc phát ra hai khúc nhạc và kết lại với nhau thành một khúc nhạc mới. Họ cũng sử dụng bàn xoay dĩa hát như một công cụ tạo tốc độ bằng tay cho bài hát: đẩy nhanh, làm chậm lại hoặc để di chuyển tới lui đĩa nhạc đang phát âm. Thủ thuật di chuyển đĩa nhạc tới lui gọi là ‘cào-cạo’[G]. Từ đấy, phong cách hát-nói, được chuyển biến thành nhạc hát Rap.
Khởi đi từ âm vần và nhịp điệu Phi-Châu, những dòng chảy Rythm & Blues, Soul, Gospel, Funk, Reggae và hiện đại hơn là Hip-Hop, thảy đều dung chứa Rap. Như vậy, Rap là đầu tiên, là cốt lõi và là hiện tượng trong nền âm nhạc da đen.
2. Ráp và(o) Thơ
Đã có rất nhiều những tranh luận về “chất thơ” của Rap diễn ra từ đầu thập niên 80 của thế kỷ trước kéo dài đến đầu thế kỷ này.
Thể luật[H] của những bài Rap là một chủ đề được nghiên cứu rất nhiều và người ta nói chung đều đồng ý rằng nó đã mang lại cho thơ ca một chiều hướng/khía cạnh mới. Các ca-nhạc-sĩ Rap thường sử dụng thuật phối hợp và viết tắt một số từ-ngữ để tạo hiệu lực âm-vần-điệu theo chủ ý của mình, cốt là để đồng bộ hóa âm-vần-điệu với nhịp đập của nhạc-khí. Cách phá cấu trúc này rõ ràng là sự thể hiện của Hậu-Hiện-Đại.
Bouazza (1999)[1] đã viết một bài giải đáp cho câu hỏi là những ca-nhạc-sĩ Rap thật ra là những nhà thơ hay chỉ là những nhà sản xuất của thể loại âm nhạc rất khó hiểu (?). Trong nghiên cứu của mình, Bouazza (1999) đi vào những điểm tương đồng và khác nhau giữa Rap và thơ ca. Điểm đầu tiên được mổ xẻ là thể luật và đưa đến kết luận rằng: cả thơ và Rap đều có một nhịp điệu nhất định và Rap đã gióng lên trong nền thơ ca một âm điệu mới. Điểm thứ hai là vần điệu. Nghiên cứu của Bouazza (1999) đã đưa đến kết luận rằng: vần điệu là điểm tương đồng giữa thơ va Rap, bởi hầu hết những bài Rap sử dụng vần điệu.
Sự khác biệt giữa thể luật của thơ ca và văn bản Rap có thể ví như là sự khác biệt giữa Rap và ca hát. Các ca từ của bài hát thường quyện vào nhau một cách trôi chảy và dựa vào những nốt nhạc khác nhau. Rap thì hoàn toàn khác biệt. Ice-T[2] mô tả sự khác biệt giữa Rap và ca hát như là sự khác biệt giữa một cây vĩ cầm và một cái trống.
Điểm thứ ba trong nghiên cứu của Bouazza (1999) là nội dung mà người ta kết luận đây là một trong những điểm tương đồng giữa thơ ca và Rap. Điểm tương đồng ở nội dung giữa Rap và thơ ca có thể tìm thấy trong ngôn ngữ tượng trưng (nghĩa bóng hoặc ẩn dụ) mà cả nhà thơ lẫn ca-nhạc-sĩ Rap đều sử dụng nó. Khi nói đến nội dung và như vậy là nói đến chất lượng của các văn bản, thì các ý kiến đối nghịch rất đáng kể. Một số nhìn nhận các ca-nhạc-sĩ Rap là những nhà thơ đương đại, những người khác cho rằng văn bản Rap quá đơn giản và vô nghĩa/phi lý do đó không thể được so sánh với thơ ca thực thụ. Tuy nhiên, đơn giản không phải là một tiêu chí để đánh giá trọng lượng chất thơ của một bài vần (vè). Những bài thơ cổ điển đẹp nhất của các bậc thầy như A.E. Housman[3], Thomas Hardy[4] và Charles Dickens[5] đã gây ấn tượng và nổi bật chính vì cấu trúc và tính chất đơn giản của chúng.
Rosen và Marks (1999)[6] cho thấy trong nghiên cứu của họ là rất có những điểm tương đồng giữa văn học cổ đại và Rap. Họ nghiên cứu, xem xét thơ Hy Lạp và La Mã cổ đại và phát hiện ra những nhà thơ Hy Lạp cổ đại thời đó đã gây sốc cho công chúng/khán-thính-giả với những văn bản chà đạp phụ nữ. Điểm này được nhanh chóng tìm thấy sự tương đồng khi đem so sánh với các văn bản của những ca-nhạc-sĩ Rap Du-đãng[I] thời nay: họ nói về nữ giới một cách không lành mạnh.
Nhà nghiên cứu văn học người Mỹ, Adam Bradley (2009)[7] cho rằng có những ca-nhạc-sĩ Rap có những sáng tác đẫm tính thơ. Chính tính thơ của những bài Rap đó, khiến cho thính-giả của chúng lắng nghe một cách ý thức hơn.
![]() |
3. Ráp: Kỹ-Thuật, Nội-Dung và(o) Âm-Nhạc (-Điệu)
Về nội dung, Rap có những phong cách thể hiện đặc trưng sau đây:
- Thông-Điệp[J]: nói về những sự kiện lịch sử đương đại, thường được nhìn qua lăng kinh của người dân da đen;
- Du đãng[I’]: nói về bạo lực, vũ khí, khẩu khí ngầu và lối sống ương ngạnh, ngoan cố;
- Phong-trào Tiếng Mẹ đẻ[K]: nói về quê hương Châu-Phi, nơi xuất xứ của hậu duệ dân nô-lệ da đen;
- Và những đề tài như Tình-yêu, cái Tôi (cái gọi là Rap-Khoe-Khoang[L]), khoảng cách giàu nghèo, cuộc sống hàng ngày.
Rap có những đặc điểm kỹ thuật sau đây:
- Nói/kể chuyện trong/với âm nhạc đong đưa nhịp nhàng;
- Nói/kể chuyện một cách liên tục, nhanh và sử dụng rất nhiều từ ngữ;
- Sử dụng từ ngữ vần điệu, kể cả ở giữa câu (nội vần[M]);
- Sử dụng các từ ngữ bắt đầu bằng những chữ có âm điệu giống nhau (điệp âm[N]);
- Sử dụng các từ âm thanh như nhau (phép trùng âm[O]).
Nếu âm nhạc tốt thì đã rất tốt, nhưng sự kết hợp âm nhạc tốt và lời hay là tuyệt vời. Đây là sức mạnh và chất lượng đáng kể của Rap.
Do đó, điều đáng nên biết là Rap bắt đầu như một cuộc thi đua trên sân khấu. Các ca-nhạc-sĩ Rap hạ nhau bằng những lời vần/vè/điệu để nhận được những tràng pháo tay của khán-thính-giả. Điều này đã dẫn đến một sự phát triển về chất lượng và cải tiến của lời bài hát/văn bản. Khía cạnh và sức manh cạnh tranh của Rap được duy trì bởi lẽ các ca-nhạc- sĩ Rap luôn tiếp tục tập trung vào lời Rap/văn bản hay, hoặc ít nhất là những ca từ độc đáo (bất kể là những lời phản ánh lại xã hội, hoặc đơn thuần chỉ là giúp vui cho khán-thính-giả và khuyến khích họ nhảy múa). Hình ảnh thi đua Rap trên sân khấu cũng tương tự như những buổi hát vè, hát đối, hát ghẹo vân vân ở Việt Nam.
Gán cho một bài Rap là lùng bùng, vô nghĩa, phi lý chính là chúng ta lùng bùng mơ hồ một cách phi lý bởi vì mỗi độc giả mới chính là người xác định điều đó một cách rất riêng tư/cá nhân. Người đọc sẽ tìm thấy niềm thú vị và lôi cuốn khi người viết biết mê hoặc người đọc bằng cách sử dụng và lựa chọn từ ngữ. Các ca-nhạc-sĩ Rap thành công ở điểm này. Họ đã được tiếp nhận bởi hàng triệu khán- thính-độc-giả với những bài Rap- mặc dầu lần đầu tiên nghe rất khó tiếp cận và nói về một thế giới mà người nghe/đọc trung bình không hề biết đến - vẫn thu hút và giữ được sự chú ý của đám đông. Dĩ nhiên âm nhạc đóng một vai trò quan trọng trong đó, nhưng điều tất-yếu chính là các ca-nhạc-sĩ Rap uy tín được lừng danh là bởi những lời bài hát khéo léo và đầy ý nghĩa của họ.
Tạm kết
Sự đơn giản, cách vận-dụng ngôn ngữ và việc nương-dụng âm nhạc không phải là những dẫn chứng để lý giải rằng Rap không phải là thơ thực thụ. Những cái tồn tại trong tâm điểm là thực-chất của văn bản và điều này thì không còn thể bàn cãi gì nữa. Có rất nhiều bài Rap hay và đương nhiên cũng có những bài dở, nhưng hiện tượng này cũng có ở trong phạm trù thi ca. Hay dở hoặc phẩm định cái gì là văn học hay không văn học rất là cá nhân, bởi tất cả mọi người sử dụng các tiêu chí khác nhau. Đánh giá “chất thơ” của những bài Rap qua sự dị- ứng trước hình ảnh những con người da đen trợn mắt hét vào camera hẳn nhiên không có còn chú tâm nào vào nội dung, âm bản và vần-nhịp-điệu của nó. Và kết quả là người ta bác bỏ Rap vì cho nó là một thể loại âm nhạc xoàng xĩnh/đơn giản và đầy bạo động. Điều đó không đúng! Nhiều chương-trình nghiên-cứu văn-học và đặc biệt là thi ca đã xác định rằng Rap là một dòng chảy trong văn học và là một trường phái trong thi ca đã làm phong phú đặc biệt cho văn học, với phép ẩn dụ mới, cách dụng ngôn độc đáo, ngôn ngữ riêng biệt và một tầm nhìn tươi mới vào thế giới.
Rap là thơ và những người ca-nhạc-sĩ Rap là những nhà thơ đương đại, là những người nghệ sĩ trình diễn thể hiện thơ qua sự phối hợp độc đáo giữa âm thanh, nhịp điệu, văn bản và hình ảnh: là những người nói về những điều họ đang làm.
Nói/hát một bài văn-bản (-có-vần) một cách nhịp nhàng/có giai điệu là cách thể hiện của Rap, là sự tương đồng của mọi phong cách hát vần vè trong văn-học, -hóa lâu đời của Việt Nam[8].
Ấy thế mà một bài Rap thực chất là một văn bản vần vè, (được khoa-văn-học xác định) là một bài thơ, nhưng một bài vần vè của Việt Nam lại (bị) cho là không phải thơ?! Tiêu chí phải chăng là chỉ tiêu biện minh cho phương tiện?
B.B
(SDB13/06-14)
--------------------
[A] Anh-Ngữ: Rap
[B] Anh-Ngữ: Say
[C] Anh-Ngữ: Talk
[D] Anh-Ngữ: Spoken Word
[E] Anh-Ngữ: Slam Poem (Slam là nội và ngoại đông từ, có nghĩa là: đóng sầm (cửa) - rập mạnh (cửa)).
[D-E]:
- Glazner, Gary Mex. Poetry Slam: The Competitive Art of Performance Poetry. San Francisco: Manic D, 2000.
- Neal, Mark Anthony (2003). The Songs in the Key of Black Life. A Rhythm and Blues Nation. New York: Routledge.
- Smith, Marc Kelly, and Mark Eleveld. The Spoken Word Revolution: Slam, Hip-hop & the Poetry of a New Generation. Naperville, IL: Source MediaFusion, 2003.
- Jeroen Naaktgeboren: Poetry Slam, het festival, uitgeverij Douane, 2005.
- Aptowicz, Cristin O’Keefe (2007), Words in Your Face: a guided tour through twenty years of the New York City poetry slam. New York, Soft Skull Press.
- “Spoken word/ Slam poems” bài viết của Lisa Martinovic - “Ngôn Từ Nói/Những Bài Thơ Slam”. Bản dịch và giới thiệu bởi Khế Iêm. http://thotanhinhthuc.org/Tieng%20Tho%20Khac/ ttk_slampoetry.html
[F] Anh-Ngữ: Dub
[G] Anh-Ngữ: Scratch
[H] Anh-Ngữ: Meter
[I] Từ ngữ của Duyên-Anh, Vũ Mộng Long (1935 - 1997) trong những tác phẩm viết trước năm 1975 về lối sống phóng khoáng, bất cần đời giới giang hồ, bụi đời trong xã hội.
[I’] Anh-Ngữ: Gangsta (rap).
[J] Anh-Ngữ: Message (rap).
[K] Anh-Ngữ: Native Tongue Movement
[L] Anh-Ngữ: Brag rap hay là Big Talking rap
[M] Anh-Ngữ: Internal Rhyme
[N] Anh-Ngữ: Alliteration
[O] Anh-Ngữ: Assonance
[1] Bouazza, H. (1999). Poëzie en Rap. Passionate
[2] Ice-T là tên nghệ sĩ của Tracy Lauren Marrow (sinh ngày 16/2/1958 tại Newark, New Jersey), là một ca-nhạc sĩ Rap uy tín và lừng danh, diễn viên điện ảnh và ca-sĩ. Mặc dù sinh-quán của Ice-T ở vùng bờ biển phía đông Hòa-Kỳ (East Coast), anh lại trở thành một trong những thủ lãnh hàng đầu của nền Hip-Hop vùng bờ biển phía tây Hoa-Kỳ (West Coast).
[3] Alfred Edward Housman (Worcestershire, 26/3/1859 - Cambridge, 30/4/1936), hay còn gọi là A.E. Housman. Là một nhà thơ, học giả người Anh-Quốc được đào tạo theo trường phái cổ-điển nổi tiếng với những bài thơ chu trình A Shropshire Lad của ông. Những bài thơ trữ tình, gần như châm biếm này ông viết chủ yếu trước 1900. A.E. Housman được coi là một trong những nhà kinh điển quan trọng nhất của thế hệ ông, và là một trong những học giả vĩ đại nhất của mọi thời đại.
[4] Thomas Hardy (Higher Bockhampton, 2/6/1840 - Higher Bockhampton, 11/1/1928) là một tiểu thuyết gia tự-nhiên-học và nhà thơ Anh-Quốc của thời đại Victoria và đầu thế kỷ 20. Ông được coi là một trong những nhà văn lớn của văn học Anh.
[5] Charles John Huffam Dickens (Landport Portsmouth, 7/2/1812 - Gad’s Hill Place in Rochester (Kent), 9/6/1870) là một trong những nhà văn chuyên nghiệp người Anh-Quốc trong thời kỳ Victoria và là nhà biên-niên-sử-văn-học đầu tiên trong thời kỳ cao trào của cuộc cách mạng công nghiệp. Ông nổi tiếng với những kiệt tác David Copperfield (1849 - 1850), Great Expectations (1860-1861), Oliver Twist, Nicholas Nickleby và A Christmas Carol (1843).
[6] Rosen, R. & Marks, D. (1999). Comedies of transgression in gangsta rap and ancient Classical Poetry. New Literary History.
[7] Adam Bradley, Book of Rhymes: The Poetics of Hip-Hop (2009), Basic Civitas Books.
[8] Bài chòi, Ca Huế, Ca trù, Cải lương, Chầu văn, Đờn ca tài tử Nam Bộ, Hát bội, Hát chèo, Hát dô, Hát dặm/giặm, Hát đúm, Hát ghẹo, Hát phường vải, Hát sắc bùa, Hát trống quân, Hát ví, Hát xoan, Hát vè, Hò, Hò sông Mã, Lý, Nhạc cung đình, Tuồng, Vọng cổ, Hát Xẩm, Hát Quan họ, Hát Cò lả, Hát nói, Hát phường nghề, Hát đồng dao, Hát vận, Hát ví, vân vân.
VĂN CAO
Sau triển lãm Duy nhất 1944 (Salon Unique), tôi về một căn gác hẹp đầu phố Nguyễn Thượng Hiền.
TRƯƠNG QUANG LỤC
Lần đầu tiên tôi quen biết nhạc sĩ Tôn Thất Lập là tại thành phố Hồ Chí Minh sau ngày thống nhất đất nước.
DƯƠNG BÍCH HÀ
Miền núi phía Tây Bắc huyện Minh Hóa ở Quảng Bình có nhiều nhóm tộc người cùng sinh sống như nhóm người Mày, Rục, Sách, Mã Liềng, A Rem (gọi chung là tộc người Chứt), và tộc người Nguồn (trước kia gọi là người bản địa Kẻ Sạt, Kẻ Xét, Kẻ Trem, Kẻ Pôộc bộ Việt Thường, nước Văn Lang).
TRÀ AN
Người ta gọi Trịnh Công Sơn là Sứ giả tình yêu, Kẻ du ca về phận người, hay Người tình mọi thế hệ… nhưng có lẽ với tên gọi mà nhạc sĩ Văn Cao đặc biệt yêu mến dành tặng ông: “Con người thi ca” thì chức danh ấy phù hợp hơn cả.
TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG
I. Vài nét về dân ca Tà Ôi
Trong hệ thống phân loại, dân ca Tà Ôi có đến 9 làn điệu gồm: Cà lơi, Ba bói, Cha chấp, Xiềng, Ân tói, Babởq, Ra rọi, Roin, Ru akay. Mỗi làn điệu đều có những quy định, cách thức thể hiện khác nhau.
Hoàng Nguyễn hiện là giảng viên thanh nhạc Trường Cao đẳng Nghệ thuật Huế. Anh bước vào nghề hát từ năm 1968. Từ 1973 đến 1978 học thanh nhạc Nhạc Viện Hà Nội, sau đó chuyển về giảng dạy ở trường âm nhạc Huế. Năm 1981 đến 1985 học thanh nhạc tại Bungari. Với kỹ thuật thanh nhạc điêu luyện, Hoàng Nguyễn đã góp phần quan trọng vào thành công buổi trình diễn thanh nhạc Thính phòng đầu tiên tại Hội văn nghệ Thừa Thiên - Huế.
NGUYÊN CÔNG HẢO
Sau Đại hội tháng 01 năm 2013, vừa ổn định xong công việc tôi được nhạc sĩ Nguyễn Trung, Chi hội trưởng Chi hội Âm nhạc của tỉnh Bắc Ninh mời đi dự chương trình Liên hoan âm nhạc các tỉnh, thành phố kết nghĩa tại thành phố Huế vào tháng 4 năm 2013.
NGUYỄN XUÂN HOA
Tại Diễn đàn Nghệ thuật Châu Á - Thái Bình Dương (Forum of Asian and Pacific Performing Art) năm 1996 ở Hyogo, Nhật Bản, những nhạc công Nhã nhạc Huế đã có các buổi giao lưu, cùng biểu diễn với Nhã nhạc Nhật Bản; đồng thời một số nhà nghiên cứu Nhã nhạc của hai nước cũng đã có dịp trao đổi về mối quan hệ giữa Nhã nhạc Á Đông (Gagakư Nhật Bản, Ahak Hàn Quốc, Yayue Trung Hoa và Nhã nhạc Việt Nam).
Thất lạc suốt 150 năm - và bị hiểu lầm là tác phẩm của em trai bà – một bản nhạc táo bạo và phức tạp của Fanny Mendelssohn mới đây đã nhận được sự chú ý xứng đáng dù muộn màng. Hậu duệ cách bà sáu thế hệ kể lại câu chuyện.
Theo thông tin mới nhận được từ phía Cục NTBD, ca khúc “Nối vòng tay lớn” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã chính thức được cấp phép lưu hành và phổ biến rộng rãi trên toàn quốc.
Gần 1 tháng, sau khi Cục Nghệ thuật biểu diễn (NTBD) có công văn yêu cầu tạm dừng lưu hành 5 ca khúc sáng tác trước năm 1975, công chúng yêu nhạc vẫn chưa hết băn khoăn. Mới đây, việc tìm thấy bản gốc ca khúc “Con đường xưa em đi” lại càng khiến dư luận băn khoăn hơn: Mất bao lâu để nhà quản lý hoàn tất việc đối chiếu giữa bản gốc và dị bản của ca khúc? Sau sự việc này, việc xác minh dị bản ca khúc nói chung sẽ được thực hiện ra sao?
Bà Kha Thị Đàng - vợ cố nhạc sỹ Châu Kỳ đã bật mí về con đường mòn xuyên qua một cánh đồng lúa mà bà cho rằng chính con đường này đã tạo cảm hứng cho chồng bà và nhà thơ Hồ Đình Phương viết lên ca khúc “Con đường xưa em đi”.
Nói đến văn hóa Quảng Bình, không thể không nhắc đến hò khoan Lệ Thủy. Với lối hát dung dị, mộc mạc và gần gũi, làn điệu dân ca này là món ăn tinh thần bao đời nay của người dân nơi đây. Những ngày qua, hò khoan Lệ Thủy đã vang lên giữa Thủ đô, tạo điểm nhấn trong chương trình “Quảng Bình trong lòng Hà Nội”.
Vừa qua UNESCO đã chính thức ghi danh công nhận di sản “Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt” là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Từng đứng trước nguy cơ mai một, nhưng giờ đây, những làn điệu Then không chỉ đã dần tìm lại được chỗ đứng của mình mà còn đang trên hành trình trở thành di sản văn hóa của nhân loại. Đó chính là kết quả của sự nỗ lực không ngừng của các cấp, chính quyền và các nghệ nhân, những người tâm huyết với Then.
Erik Satie (1866-1925) được các nhà nghiên cứu lịch sử âm nhạc ngợi ca vì đã có công mở đường tới chủ nghĩa tối giản trong âm nhạc cổ điển từ trước Chiến tranh thế giới lần thứ nhất.
Cục trưởng Cục Nghệ thuật biểu diễn giải thích việc gửi văn bản gửi Sở VH-TT TP HCM yêu cầu tạm dừng lưu hành 5 bài hát đã cấp phép phổ biến để hướng dẫn các tổ chức, cá nhân thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật về quyền tác giả và quyền liên quan.