Ghi chú cho một bài thơ có thể không bao giờ được Đây là nơi thà ta đừng biết tới đây là nơi sẽ chiếm giữ hồn ta đây là nơi ta không thể hình dung đây là nơi cuối cùng sẽ đánh bại ta nơi tiếng tại sao tự nó sẽ héo hon và trống rỗng. Đó là nạn đói. II. Không bài thơ nào có thể viết về nó, những dải cát bao xác người chôn xuống đào lên, nỗi đau không chịu nổi còn vằn trên da họ. Chuyện không xảy ra năm ngoái hay 40 năm trước mà là tuần trước. Chuyện đã xảy ra còn kéo đến bây giờ Chuyện đang xảy ra. Chúng ta kết những vòng hình dung từ cho họ, chúng ta đếm họ như lần tràng hạt, chúng ta đưa họ vào thống kê và kinh kệ vào những bài thơ như bài này. Chẳng có gì được việc. Họ thế nào vẫn nguyên thế ấy. III. Người đàn bà nằm trên sàn xi măng ướt dưới ngọn đèn không bao giờ tắt những vết kim đâm vào cánh tay để giết trí não chị tự hỏi vì sao mình chết. Chị chết vì đã nói Chị chết cho quyền của ngôn từ Chính thân thể chị, lặng im không có ngón tay, đang viết bài thơ này. IV. Giống như cuộc giải phẫu nhưng không phải cũng không phải, dù có rạng chân, có rên rỉ và máu, không phải sự sinh nở. Có phần là một công ăn việc làm, có phần là biểu diễn kỹ năng giống như cuộc hoà tấu. Một công việc mà người ta có thể làm tồi hay làm giỏi, họ tự nhủ. Có phần là một nghệ thuật V. Những thực tế trên đời này nhìn rõ là nhìn qua nước mắt vậy hãy nói tôi hay vì sao còn có cái mắt tôi nhìn lầm? Nhìn cho rõ và không nao núng không quay đi, đây là cơn hấp hối, mắt mở to cách mặt trời hai phân. Khi ấy điều gì ta nhìn thấy? Ac mộng hay quáng mắt? Ao ảnh? Điều gì ta nghe thấy? Lưỡi dao cạo rạch ngang tròng mắt là chi tiết trong cuốn phim cũ Đó cũng là một sự thật. Làm chứng là việc ta phải gánh. VI. Ở xứ này ta có thể nói gì tuỳ thích bởi dù sao cũng chẳng ai thèm nghe như vậy đủ an toàn, ở xứ này ta có thể thử viết bài thơ có thể không bao giờ được viết bài thơ không bịa đăt gì không bỏ qua gì vì mỗi ngày ta vẫn bịa đặt và bỏ qua cho chính mình. Ở nơi khác, bài thơ này không phải là bịa đặt Ở nơi khác, bài thơ này đòi dũng cảm Ở nơi khác, bài thơ này phải được viết ra vì các nhà thơ đều đã chết. Ở nơi khác, bài thơ này phải được viết ra như thể ta đã chết, như không thể làm gì hơn hoặc nói gì hơn để cứu vớt ta. Ở nơi khác ta phải viết bài thơ này bởi không có gì hơn để làm. Biến tấu trên từ ngủ Em muốn nhìn anh ngủ, Điều này có thể không xảy ra. Em muốn nhìn anh, ngủ. Em muốn ngủ với anh, đi vào giấc ngủ anh khi làn sóng tối êm của giấc ngủ anh lướt bên trên đầu em muốn bước cùng anh qua khu rừng sáng nhấp nhô lá xanh mặt trời đẫm nước và ba mặt trăng, đi về phía cái hang mà anh phải xuống về phía nỗi sợ tệ hại nhất của anh. Em muốn tặng anh cành cây bạc, bông hoa trắng nhỏ, một tiếng chở che anh khỏi nỗi sầu muộn nơi trung tâm giấc mộng, khỏi nỗi sầu muộn nơi trung tâm. Em muốn theo anh lần nữa lên chiếc cầu thang dài và trở thành con thuyền chèo đưa anh trở về cẩn thận, một ngọn lửa giữa hai bàn tay khum. tới nơi thân thể anh nằm bên em, và anh nhập vào đó dễ dàng như hít vào Em muốn là không khí trú ngụ trong anh chốc lát thôi. Em muốn là cái anh không để ý và cái anh rất cần (nguồn: TCSH số 159 - 05 - 2002) |
PABLO NERUDATrên đỉnh Machu Picchu(*)
Yevgeny Yevtushenko - Odysseas Elytis
Maiakôpxki là nhà thơ lớn của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới và là nhà thơ lớn của nhân loại thế kỷ XX.Thơ của ông biểu hiện nhiệt tình công dân mãnh liệt, là tiếng hát của tương lai, của chủ nghĩa Cộng sản, và tiếng thét căm giận đả phá những mặt tiêu cực trong cuộc sống Xô Viết lúc bấy giờ. Nhà thơ của quãng trường, nhà thơ hùng biện, đó là những từ để mệnh danh người nghệ sĩ kiểu mới này. Ông rất ít viết về thơ tình. Trong dịp kỷ niệm 30 năm sinh của nhà thơ. Tạp chí Văn học Xô Viết ngoài việc giới thiệu những bài thơ chủ đề công dân và xã hội nổi tiếng, còn giới thiệu 2 bài thơ tình của ông. Tâm hồn nồng nhiệt, đẩy đến tận cùng mọi sự, ngay cả lý tưởng hay tình yêu đó là bản chất của thơ Maia.
Hải Kỳ - Đỗ Hoàng - Nguyễn Khắc Thạch
Pimen Pan-tren-cô _ Xéc-gây Da-côn-ni-cốp _ Anatôn Grêtanikốp
Mắc-xim Tăng-kơ (tên thật là Ép-ghê-ni Skuốc-kô) là nhà thơ của đồng ruộng, đất đai, đường sá, khắp các vùng của lãnh thổ Liên bang Xô-viết và rất nhiều nước khác.
XERGÂY ÊXÊNHIN(Trích từ “Những khúc bi ca” và tuyển tập thơ Xergây Êxênhin)
Ngày 22 tháng 10 năm 1987 Viện Hàn lâm Thụy Điển công bố tên người được tặng giải thưởng Nôben văn học - nhà thơ Nga sống ở Mỹ Iosif Brodsky. I.Brodsky là nhà văn Nga thứ năm được nhận giải thưởng cao quý này. Sau I.Bunhin (1933), B.Pastemnac (1958), M. Solokhov (1965), A.Xongienhixun (1970).
Ludmila TatianitchevaTuổi tôi
OCTAVIO PAZ Tặng các nhà thơ André Breton và Benjamin Perêt
J.W.GOETHECa khúc thiêng liêng
LTS: Nhân dịp kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười (7 - 11) Sông Hương trân trọng giới thiệu chùm thơ của I.Bunhin, tác giả được giải Nobel 1933.
LTS: TOMMY OLOFSSON (1950) là một trong những nhà thơ "sung mãn" nhất Thụy-Điển hiện nay, tác giả bảy tập thơ (tính đến 1991). Ông còn là một chuyên gia về James Joyce, có bằng tiến sĩ văn chương của đại học Lund, tác giả hoặc người biên tập nhiều công trình biên khảo, và nhà phê bình văn nghệ nổi tiếng của nhật báo Thụy Điển Svenska Dagbladet. Bản dịch Thơ nguyên sơ dưới đây dựa theo bản Anh văn của Jean Pearson: Elemental Poems (White Pine Press, N.Y. 1991)
WISLAWA SZYMBORSKA (Nữ nhà thơ Ba Lan. Giải Nobel văn học 1996)
FRED MARCHANT (Mỹ) Tặng Diệu LinhTựa đề của bài thơ là viết sau ba mươi năm Mậu Thân. Ba mươi cái cúi đầu bắt buộc về những mất mát, những nỗi đau do chiến tranh gây ra.
Thi sĩ viết về những điều vi tế của cuộc sống, từ chối nói về mình và cả những người nổi tiếng. Cả cuộc đời, thi sĩ chỉ nhắc đến Thomas Mann một lần trong thơ như sự thiếu vắng con người - sự lưu lạc trên chính quê hương, tâm hồn mình. Và Brodsky, một tâm hồn bị lệch kênh, bị trục xuất… trong diễn văn Nobel. Và cả dòng sông tư nghị: Heraclite.Szymborska, nữ sĩ Ba Lan, là một bậc thầy về thơ nghị luận, viết thơ cũng như cả tiểu luận là để trả lời cảm xúc và câu hỏi: tôi không biết. Sinh 1923 tại Kornik, hiện sống tại Krakow. Viết khoảng 210 bài thơ và một ít tiểu luận từ 1952 đến nay. Nobel văn chương 1996 và nhiều giải thưởng danh dự khác.
PAVIL BUKHARAEP - IVAN SIÔLÔCỐP - IURI SMELIÔP
LTS: Là nhà thơ, tác giả của ba cuốn sách về thi ca. Cùng với Nguyễn Bá Chung ông đã cùng dịch tập thơ “Từ góc sân nhà em” của Trần Đăng Khoa. Ông là giáo sư Anh ngữ, Giám đốc chương trình sáng tạo viết văn của Đại học Suffolk. Ông còn là người thẩm định tác phẩm bậc thầy của Trung tâm William Joiner nghiên cứu về chiến tranh và hệ quả xã hội tại Umass Boston.Ông cũng là người giới thiệu hai cuốn sách Núi Bà Đen của Larry Heinemann và Cốm non (Green Rece) của Lâm Thị Mỹ Dạ đã được dịch ở Mỹ.
Baolin Cheng (Trương Bảo Lâm) là một nhà thơ thành công của “thế hệ thứ ba” các nhà thơ hiện đại Trung Quốc (thế hệ thứ nhất thuộc thời “ngũ tứ” 1919, thế hệ thứ hai được gọi là thế hệ “thơ mông lung” sau cải cách mở cửa). Hiện định cư tại San Françisco (Hoa Kỳ) với tư cách một nhà thơ song ngữ Hoa - Mỹ. Theo Paul Hoover, chủ biên cuốn “Thơ Hậu hiện đại Mỹ”, thơ Baolin Cheng sử dụng những cách thức của thơ siêu hình học- những chuyện kể nén chặt và những cấu trúc ý niệm - phục vụ cho các mục tiêu hiện thực chủ nghĩa. Những bài thơ sau đây của Baolin Cheng đã xuất bản ở Mỹ và Trung Quốc dưới hình thức song ngữ.
RUDYARD KIPLINGRUDYARD KIPLING (1865 Bombay - 1936 Londres) sống trong môi trường Anh-Ấn văn hóa rất cao, là một nhà văn nổi tiếng với những cuốn tiểu thuyết Le Livre de la Jungle (Cuốn sách của rừng xanh), Kim và là một nhà thơ . Thơ ông tập trung vào chủ đề giáo dục nhân cách và đạo đức. Bài thơ NẾU (IF) dưới đây là một bài thơ nổi tiếng của ông.