Cùng với Thời xa vắng, Sóng ở đáy sông là tiểu thuyết làm nên tên tuổi của nhà văn Lê Lựu. Nếu như Thời xa vắng ngay khi mới xuất bản đã gây tiếng vang, thu hút sự chú ý của bạn đọc trong nước, thì Sóng ở đáy sông chỉ được dư luận chú ý đến sau thành công vang dội của phim truyền hình cùng tên.
Với khả năng nhập vai “rất ngọt” của các nghệ sĩ Duy Hậu, Xuân Bắc, Kim Oanh… cùng kịch bản phim chặt chẽ, chân thực, xúc động, giàu tính nhân văn, phim Sóng ở đáy sông nhanh chóng thu hút được sự quan tâm của đông đảo khán giả, trở thành hiện tượng của truyền hình Việt Nam những năm 2000. Sự thành công của phim truyền hình này khiến bạn đọc tò mò, tìm đọc lại tác phẩm của nhà văn Lê Lựu.
Tiểu thuyết Sóng ở đáy sông là một câu chuyện dài về cuộc đời của những con người trong một gia đình tiểu tư sản thành thị ở mảnh đất Sáu kho trước năm năm tư thế kỉ hai mươi. Núi - nhân vật chính của tác phẩm - vốn là con của bà vợ lẽ kiêm người ở, từ nhỏ đã phải chịu nhiều cay đắng bởi sự phân biệt hắt hủi của chính cha ruột - ông Đại. Khi Núi bước vào tuổi thiếu niên thì mẹ mất, bị bố bỏ rơi. Ở nơi sơ tán thiếu thốn, Núi phải lăn lộn vào đời để kiếm miếng ăn nuôi các em và bắt đầu trượt dài vào vòng xoáy tội lỗi. Con đường tha hóa của Núi ghi dấu những người đàn bà đi qua đời anh: Hiền, Mây, Hồng. Sau rất nhiều lần vào tù ra tội, nhờ sự cảm hóa của những cán bộ quản giáo và tình yêu chân thật từ Hồng, cuối cùng Núi đã trở thành một công dân có ích cho xã hội.
Câu chuyện về nhân vật Núi, với hành trình hoàn lương đầy gian nan và cảm động, vốn được xây dựng từ “nguyên mẫu” là một tử tù người Hải Phòng tên Sơn mà nhà văn Lê Lựu có dịp tiếp xúc ở trại tù Phi Liệt cuối năm 1992. Trong lần trò chuyện ấy, người tù đã “phác qua” cho nhà văn về gia đình và cuộc đời “vào tù ra tội” như cơm bữa của mình. Dựa trên những lời tâm sự của người tù, bằng trí tưởng tượng và tài năng văn chương, nhà văn Lê Lựu đã xây dựng nên hai nhân vật là ông Đại và Núi trong tiểu thuyết Sóng ở đáy sông.
Ông Đại trong tiểu thuyết có nhiều nét khá tương đồng với bố của người tù tên Sơn ngoài đời thật. Ông cụ vốn là một công chức thời thuộc Pháp. Tiếng Pháp cụ nói thạo hơn tiếng mẹ đẻ. Cụ cũng ba đời vợ, đông con cháu, chỉn chu và khá hóm trong sinh hoạt. Trong cách dạy dỗ con cái, cụ nổi tiếng nghiêm khắc. Con cái cụ, vì thế được ảnh hưởng nhiều tính cách của ông bố: ưa sạch sẽ, ngăn nắp, cẩn thận. Cụ hà khắc nhưng những hàng xóm từ ngõ Mai Viên, phố Trần Bình Trọng gần ga Hải Phòng cho đến khu tập thể Cát Bi những năm trước Đổi mới có thể làm chứng là cụ không lạnh lùng tàn nhẫn một cách phớt tỉnh như “lão Đại”. Cụ công nhận là có ưu ái những đứa con bà cả hơn (điều này cũng dễ hiểu trong bối cảnh thời đại ấy), nhưng chưa bao giờ coi mấy đứa con bà vợ ba là những công dân hạng hai hay những sinh vật hạ đẳng được sinh ra bởi sự dư thừa bản năng giống đực như ông Đại trong tiểu thuyết. Trên thực tế, mẹ của người tù tên Sơn được lấy làm bà ba. Trước khi mất, bà cả đã trăng trối nhờ một người bạn thân (là mẹ Sơn) gá nghĩa với chồng mình. Bà hai về làm vợ một thời gian, chẳng hiểu sao không có con. Rồi bà hai bỏ đi, lúc đó bà ba mới chính thức có danh phận trong gia đình chồng. Cụ ông nhiều vợ nhưng đường hôn thê lận đận vì các bà đều sớm rời cụ để cụ phải sống đời “gà trống nuôi con” khi chưa đến ngũ tuần. Và cũng chính những người hàng xóm nói trên vẫn còn có thể nhớ rất rõ đứa con của người vợ thứ ba đã làm khổ ông cụ đến mức nào vì sự bất kham, biếng học. Khác với những anh con bà cả, anh ta khi bước vào tuổi thiếu niên đã sớm bộc lộ bản chất ma cà bông: học hành lớt phớt dở dang, rồi bị lôi kéo vào chợ đời, chỉ muốn lấy của người làm của mình. Hẳn điều đó đã khiến ông cụ rất phiền lòng. Và đó cũng là đầu mối khiến cho hai cha con ngày càng xa cách. Nhưng cho đến lúc hấp hối, có bao nhiêu con thì cụ vẫn còn nguyên cả, vì cụ chưa từng tuyên bố từ mặt đứa nào. Cũng cho đến cái giây phút ấy, cụ không hề hay biết mình đã được/bị bước vào văn chương, để rồi bị đóng đinh câu rút vào cái vai ác nhân, bị người đời phẫn nộ như thế nào.
Về nhân vật Núi, nếu như trong tiểu thuyết (và cả phim truyền hình), anh ta có cái kết khá viên mãn làm hài lòng đa số người đọc (và người xem), thì nguyên mẫu ngoài đời thực sau khi rời khỏi cánh cửa phòng giam để trở về với cuộc đời lại không may mắn như vậy. Anh bị hàng xóm dị nghị, cảnh giác, khiến luôn phải “sống trong sợ hãi”. Khi Sóng ở đáy sông lên sóng truyền hình và nổi tiếng thì người tù năm nào cảm thấy “thiệt thòi” quá nên đã tìm đến địa chỉ số 4 Lý Nam Đế, Hà Nội gặp nhà văn Lê Lựu để yêu cầu bốn điểm:
Thứ nhất, nhà văn phải trả tiền cho anh vì nhờ có câu chuyện của anh mà nhà văn mới viết nên tiểu thuyết danh giá như thế.
Thứ hai, nhà văn phải tạo công ăn việc làm cho anh vì sau khi bộ phim khởi chiếu, anh không thể hành nghề “5 ngón” như trước.
Thứ ba, nhà văn phải thanh toán mọi phí tổn đi lại giữa Hải Phòng - Hà Nội và chuộc cho anh chiếc xe đạp đã “cắm” để làm lộ phí.
Thứ tư, nhà văn phải chia tiền nhuận bút kịch bản (nghe đâu rất “khủng”) cho anh.
Ngoài bốn “điều khoản” chính, người tù tên Sơn còn yêu cầu nhà văn Lê Lựu phải chịu trách nhiệm trong mối quan hệ căng thẳng giữa “Núi” và bố anh ta, bởi lẽ, khi cả cái đất Hải Phòng ai ai cũng quan tâm Sóng ở đáy sông thì mối quan hệ giữa hai cha con vốn đã tệ nay càng thêm tệ.
Dĩ nhiên những điều kiện không tưởng của người tù tên Sơn ấy đã bị nhà văn Lê Lựu từ chối một cách nhã nhặn và khéo léo, rằng toàn bộ câu chuyện cuộc đời bất hạnh của anh chàng Núi kia đều là sản phẩm trí tưởng tượng của ông; những giờ gặp gỡ ngắn ngủi trong trại tù với anh không thể nào giúp ông dựng một cuốn tiểu thuyết dài mấy trăm trang như thế…
Câu chuyện kiện cáo của người tù tên Sơn với nhà văn Lê Lựu khép lại khá lâu nhưng dư âm của nó vẫn còn mãi đến hôm nay. Mối quan hệ giữa nhân vật và nguyên mẫu luôn là “tệp đính kèm” nhiều kích thích đối với độc giả trên hành trình họ thám mã “tệp chính” tác phẩm.
Theo Lê Thị Thủy - VNQĐ
HỒ ANH THÁI
Tình yêu quê hương, tình yêu gia đình, những khám phá thú vị trong cuộc sống xa xứ là điểm chung trong hai tác phẩm “Bốn mùa hoang vu xứ kiwi” và “3,1kg hạnh phúc” của hai tác giả trẻ Trần Băng Khuê và Mai Thanh Nga cho bạn đọc thấy được phong vị của những vùng đất khác nhau cũng như cuộc sống của những người Việt trẻ xa xứ.
Sức viết của nhà thơ ngoài lục thập Đinh Ngọc Diệp (sinh năm 1956) có dấu hiệu mạnh lên khi trước thềm xuân mới, ông ra mắt tập “Hành trình 6” (NXB Hội Nhà văn).
Sau giải thưởng văn xuôi của Hội Nhà văn Việt Nam, mới đây, đạo diễn Xuân Phượng tiếp tục nhận thêm giải thưởng văn xuôi của Hội Nhà văn TPHCM cho hồi ký Gánh gánh… gồng gồng… (NXB Văn hóa - Văn nghệ). Tác phẩm đã phần nào khắc họa chân dung của tầng lớp trí thức Việt Nam trong 2 giai đoạn kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
“Duyên” - tôi biết đến tác giả Nguyên Phong từ cuốn sách Đường mây qua xứ tuyết . Tôi cũng đọc qua về tiểu sử, con đường sự nghiệp của ông. Thật đáng để ngưỡng mộ!
Nhà thơ, nhà báo Vương Tâm vừa ra mắt tuyển “Thơ chọn Vương Tâm” (NXB Hội Nhà văn), với 180 bài thơ và một số bức tranh minh họa của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều.
Nhắc tới nhà văn Nguyễn Văn Thọ, bạn văn thường nhớ tới tiểu thuyết “Quyên”; các tập truyện ngắn: “Gió lạnh”, “Vàng xưa”, “Hương mĩ nhân”, “Vườn mộng”; các tập bút ký và tản văn: “Đào ở xứ người”, “Đầu ngọn sóng”… Ông còn sáng tác thơ, vẽ và viết kịch bản phim… Nhớ về thời hoa niên nhiều ước vọng, ánh mắt ông lấp lánh niềm vui.
“Sống mãi trên quê hương anh hùng” (NXB Quân đội nhân dân, 2021) là cuốn sách được viết theo thể loại truyện ký, về cuộc đời của một người anh hùng đã cống hiến tuổi thanh xuân cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Đó là Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Kim Vang - hình ảnh đại diện cho một thế hệ thanh niên lớn lên trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, sẵn sàng hy sinh không tiếc tuổi thanh xuân, xương máu của mình cho hòa bình, thống nhất của dân tộc...
Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng là tác phẩm quen thuộc với nhiều thế hệ bạn đọc. Đến nay, mặc dù đã được phổ biến rộng rãi, nhưng không phải mọi cắt nghĩa về nó đã thật thấu đáo, thuyết phục.
Nỗ lực không ngừng nghỉ của các nhà nghiên cứu lý luận văn học Việt Nam trong nhiều thập niên qua là giới thiệu, nghiên cứu, tổng thuật các hệ thống lý thuyết để vận dụng vào nghiên cứu thực tiễn văn học.
Với 17 truyện ngắn gọn gàng, tập truyện ngắn “Gió thổi trước hiên nhà” vừa được NXB Văn học ấn hành, mở ra một thế giới ngổn ngang, đa tạp của cuộc sống đời thường từ miền quê đến phố thị với đủ mọi cung bậc cảm xúc, những cảnh đời buồn vui, đặc biệt là những thân phận đàn bà nhọc nhằn, cay đắng.
Nhãn sách Văn sử tinh hoa thuộc Công ty TNHH Sách và Truyền thông Việt Nam (Tri Thức Trẻ Books) vừa phát hành cuốn "Phong vị xuân xưa - Ngày xuân xem sách biết việc cổ kim". Tác phẩm được sưu tầm, tuyển chọn từ nhiều cuốn sách, báo, tạp chí trong giai đoạn từ 1920 đến khoảng 1945.
Mấy năm gần đây, nhiều danh tác Việt đã được phát hành lại, mang đến cho độc giả hiện đại cơ hội tiếp cận dễ dàng hơn các ấn phẩm có tuổi đời trên dưới một thế kỷ. Không đơn thuần là “bình mới rượu cũ”, nỗ lực này còn mang tính gợi mở, góp phần định vị, thúc đẩy đa dạng chiều kích văn chương.
“Bốn nhà văn nhà số 4”, NXB Hội Nhà văn, của nhà phê bình Ngô Thảo dày dặn, chia làm bốn phần, tập hợp 35 bài viết của tác giả về bốn nhân vật văn chương nổi tiếng mà sự nghiệp gắn liền với ngôi nhà số 4 phố Lý Nam Đế - tạp chí Văn nghệ quân đội. Đó là Nguyễn Thi, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu và Thu Bồn.
Truyện ngắn đối với những tác giả trẻ, mới viết văn, nhiều người tự khám phá mình, bao giờ cũng qua một thử thách. Dương Hương - một tác giả trẻ vừa cho ra mắt tập truyện ngắn “Giá của đàn bà” với nhiều cảm xúc mới mẻ. Chúng tôi xin giới thiệu bài viết của nhà văn Trung Trung Đỉnh về tập truyện ngắn , của tác giả Dương Hương, do Liên Việt ấn hành.
Cầm trên tay cuốn “Thời xuân sắc” của nhà văn Huệ Ninh (NXB Thế giới, 2020) - hồi ký của một người phụ nữ bình thường, tôi thật sự xúc động và còn thấy tiếc, tự hỏi sao sách không dày hơn nữa.
“Nấp” trong nhà báo Trần Nhật Minh với vẻ ngoài “đồ sộ, quánh màu nước thời gian”, là trái tim thi sĩ nhiều rung động. Cho nên, có lẽ đã lần lữa mãi, thì cũng phải đến ngày tâm hồn chật căng, buộc phải tỏa lan hương chất mà tháng năm cuộc đời mình đã trầm tích.
“Hừng Đông” viết về “đêm trước” của cách mạng Việt Nam, giai đoạn trước khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (1930) đến cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ. Trong bối cảnh ấy, nhà văn không chạy theo sự kiện, biến cố, mà hướng tới con người cụ thể với tư cách một nhân vật văn học - chiến sĩ Cộng sản Phan Đăng Lưu.
“Lắng đọng và suy nghĩ” (NXB KH&KT, 2020) cái tên sách khiêm tốn của Tạ Quang Ngọc trở nên cuốn hút tôi. Và sự chắt lọc trí tuệ, cũng như chân thành cảm xúc, chân thành tự bạch trong cuốn sách này đã không chỉ khiến tôi cảm phục tác giả, mở mang tri thức, mà còn nâng thêm cho mình bản lĩnh, bồi đắp tình yêu con người, tình yêu đối với quê hương đất nước và sự nghiệp cách mạng.
Giải thưởng văn học Sông Mekong lần thứ 11 sẽ diễn ra tại thủ đô Phnompenh, Campuchia vào cuối năm 2020. Hai tác giả Việt Nam đoạt Giải thưởng năm nay là tác giả Trần Nhuận Minh với tác phẩm sách thơ Qua sóng Trường Giang và tác giả Trần Ngọc Phú với tác phẩm Từ Biên giới Tây Nam đến đất Chùa Tháp.