Những nguyên mẫu “bất đắc dĩ” trong “Sóng ở đáy sông”

08:36 25/06/2021

Cùng với Thời xa vắng, Sóng ở đáy sông là tiểu thuyết làm nên tên tuổi của nhà văn Lê Lựu. Nếu như Thời xa vắng ngay khi mới xuất bản đã gây tiếng vang, thu hút sự chú ý của bạn đọc trong nước, thì Sóng ở đáy sông chỉ được dư luận chú ý đến sau thành công vang dội của phim truyền hình cùng tên.

Với khả năng nhập vai “rất ngọt” của các nghệ sĩ Duy Hậu, Xuân Bắc, Kim Oanh… cùng kịch bản phim chặt chẽ, chân thực, xúc động, giàu tính nhân văn, phim Sóng ở đáy sông nhanh chóng thu hút được sự quan tâm của đông đảo khán giả, trở thành hiện tượng của truyền hình Việt Nam những năm 2000. Sự thành công của phim truyền hình này khiến bạn đọc tò mò, tìm đọc lại tác phẩm của nhà văn Lê Lựu.

Tiểu thuyết Sóng ở đáy sông là một câu chuyện dài về cuộc đời của những con người trong một gia đình tiểu tư sản thành thị ở mảnh đất Sáu kho trước năm năm tư thế kỉ hai mươi. Núi - nhân vật chính của tác phẩm - vốn là con của bà vợ lẽ kiêm người ở, từ nhỏ đã phải chịu nhiều cay đắng bởi sự phân biệt hắt hủi của chính cha ruột - ông Đại. Khi Núi bước vào tuổi thiếu niên thì mẹ mất, bị bố bỏ rơi. Ở nơi sơ tán thiếu thốn, Núi phải lăn lộn vào đời để kiếm miếng ăn nuôi các em và bắt đầu trượt dài vào vòng xoáy tội lỗi. Con đường tha hóa của Núi ghi dấu những người đàn bà đi qua đời anh: Hiền, Mây, Hồng. Sau rất nhiều lần vào tù ra tội, nhờ sự cảm hóa của những cán bộ quản giáo và tình yêu chân thật từ Hồng, cuối cùng Núi đã trở thành một công dân có ích cho xã hội.

Câu chuyện về nhân vật Núi, với hành trình hoàn lương đầy gian nan và cảm động, vốn được xây dựng từ “nguyên mẫu” là một tử tù người Hải Phòng tên Sơn mà nhà văn Lê Lựu có dịp tiếp xúc ở trại tù Phi Liệt cuối năm 1992. Trong lần trò chuyện ấy, người tù đã “phác qua” cho nhà văn về gia đình và cuộc đời “vào tù ra tội” như cơm bữa của mình. Dựa trên những lời tâm sự của người tù, bằng trí tưởng tượng và tài năng văn chương, nhà văn Lê Lựu đã xây dựng nên hai nhân vật là ông Đại và Núi trong tiểu thuyết Sóng ở đáy sông.

Ông Đại trong tiểu thuyết có nhiều nét khá tương đồng với bố của người tù tên Sơn ngoài đời thật. Ông cụ vốn là một công chức thời thuộc Pháp. Tiếng Pháp cụ nói thạo hơn tiếng mẹ đẻ. Cụ cũng ba đời vợ, đông con cháu, chỉn chu và khá hóm trong sinh hoạt. Trong cách dạy dỗ con cái, cụ nổi tiếng nghiêm khắc. Con cái cụ, vì thế được ảnh hưởng nhiều tính cách của ông bố: ưa sạch sẽ, ngăn nắp, cẩn thận. Cụ hà khắc nhưng những hàng xóm từ ngõ Mai Viên, phố Trần Bình Trọng gần ga Hải Phòng cho đến khu tập thể Cát Bi những năm trước Đổi mới có thể làm chứng là cụ không lạnh lùng tàn nhẫn một cách phớt tỉnh như “lão Đại”. Cụ công nhận là có ưu ái những đứa con bà cả hơn (điều này cũng dễ hiểu trong bối cảnh thời đại ấy), nhưng chưa bao giờ coi mấy đứa con bà vợ ba là những công dân hạng hai hay những sinh vật hạ đẳng được sinh ra bởi sự dư thừa bản năng giống đực như ông Đại trong tiểu thuyết. Trên thực tế, mẹ của người tù tên Sơn được lấy làm bà ba. Trước khi mất, bà cả đã trăng trối nhờ một người bạn thân (là mẹ Sơn) gá nghĩa với chồng mình. Bà hai về làm vợ một thời gian, chẳng hiểu sao không có con. Rồi bà hai bỏ đi, lúc đó bà ba mới chính thức có danh phận trong gia đình chồng. Cụ ông nhiều vợ nhưng đường hôn thê lận đận vì các bà đều sớm rời cụ để cụ phải sống đời “gà trống nuôi con” khi chưa đến ngũ tuần. Và cũng chính những người hàng xóm nói trên vẫn còn có thể nhớ rất rõ đứa con của người vợ thứ ba đã làm khổ ông cụ đến mức nào vì sự bất kham, biếng học. Khác với những anh con bà cả, anh ta khi bước vào tuổi thiếu niên đã sớm bộc lộ bản chất ma cà bông: học hành lớt phớt dở dang, rồi bị lôi kéo vào chợ đời, chỉ muốn lấy của người làm của mình. Hẳn điều đó đã khiến ông cụ rất phiền lòng. Và đó cũng là đầu mối khiến cho hai cha con ngày càng xa cách. Nhưng cho đến lúc hấp hối, có bao nhiêu con thì cụ vẫn còn nguyên cả, vì cụ chưa từng tuyên bố từ mặt đứa nào. Cũng cho đến cái giây phút ấy, cụ không hề hay biết mình đã được/bị bước vào văn chương, để rồi bị đóng đinh câu rút vào cái vai ác nhân, bị người đời phẫn nộ như thế nào.

Về nhân vật Núi, nếu như trong tiểu thuyết (và cả phim truyền hình), anh ta có cái kết khá viên mãn làm hài lòng đa số người đọc (và người xem), thì nguyên mẫu ngoài đời thực sau khi rời khỏi cánh cửa phòng giam để trở về với cuộc đời lại không may mắn như vậy. Anh bị hàng xóm dị nghị, cảnh giác, khiến luôn phải “sống trong sợ hãi”. Khi Sóng ở đáy sông lên sóng truyền hình và nổi tiếng thì người tù năm nào cảm thấy “thiệt thòi” quá nên đã tìm đến địa chỉ số 4 Lý Nam Đế, Hà Nội gặp nhà văn Lê Lựu để yêu cầu bốn điểm:

Thứ nhất, nhà văn phải trả tiền cho anh vì nhờ có câu chuyện của anh mà nhà văn mới viết nên tiểu thuyết danh giá như thế.

Thứ hai, nhà văn phải tạo công ăn việc làm cho anh vì sau khi bộ phim khởi chiếu, anh không thể hành nghề “5 ngón” như trước.

Thứ ba, nhà văn phải thanh toán mọi phí tổn đi lại giữa Hải Phòng - Hà Nội và chuộc cho anh chiếc xe đạp đã “cắm” để làm lộ phí.

Thứ tư, nhà văn phải chia tiền nhuận bút kịch bản (nghe đâu rất “khủng”) cho anh.

Ngoài bốn “điều khoản” chính, người tù tên Sơn còn yêu cầu nhà văn Lê Lựu phải chịu trách nhiệm trong mối quan hệ căng thẳng giữa “Núi” và bố anh ta, bởi lẽ, khi cả cái đất Hải Phòng ai ai cũng quan tâm Sóng ở đáy sông thì mối quan hệ giữa hai cha con vốn đã tệ nay càng thêm tệ.

Dĩ nhiên những điều kiện không tưởng của người tù tên Sơn ấy đã bị nhà văn Lê Lựu từ chối một cách nhã nhặn và khéo léo, rằng toàn bộ câu chuyện cuộc đời bất hạnh của anh chàng Núi kia đều là sản phẩm trí tưởng tượng của ông; những giờ gặp gỡ ngắn ngủi trong trại tù với anh không thể nào giúp ông dựng một cuốn tiểu thuyết dài mấy trăm trang như thế…

Câu chuyện kiện cáo của người tù tên Sơn với nhà văn Lê Lựu khép lại khá lâu nhưng dư âm của nó vẫn còn mãi đến hôm nay. Mối quan hệ giữa nhân vật và nguyên mẫu luôn là “tệp đính kèm” nhiều kích thích đối với độc giả trên hành trình họ thám mã “tệp chính” tác phẩm.

Theo Lê Thị Thủy - VNQĐ

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Phan nhân 1972 ( Hồi ức K15 trường Chuyên Phan Bội Châu Nghệ Tĩnh - NXB Hội Nhà văn, tháng 7/2019 ) có lẽ là một trong những cuốn sách thú vị nhất về tuổi học trò mà tôi từng đọc.

  • Ngày 6-7, tại Hà Nội, buổi giao lưu ra mắt bút ký chính luận “Một thời Đông Bắc” của tác giả Vũ Mão và ký sự tiểu thuyết “Mãi mãi một thời Thiếu sinh quân” của nhà văn Ma Văn Kháng do NXB Kim Đồng tổ chức đã thu hút sự tham gia của đông đảo các nhà văn, nhà phê bình văn học, các cựu học viên trường Thiếu sinh quân Việt Nam.

  • Ra mắt tập thơ đầu tay năm 2003, đến nay, nhà văn Nguyễn Văn Học đã xuất bản 15 tác phẩm bao gồm tiểu thuyết, truyện ngắn và thơ.

  • Văn học Nhật Bản đang để lại dấu ấn sâu đậm và mạnh mẽ cả về số lượng lẫn chất lượng. Bên cạnh dòng văn học kinh điển gắn liền với những tác giả có ảnh hưởng trên thế giới, thị trường xuất bản trong nước còn chứng kiến cuộc “đổ bộ” của những tác giả đương đại với số lượng tác phẩm không hề nhỏ.

  • Tôi vẫn luôn nghĩ rằng, đối với người nghệ sĩ, cô đơn tự xác lập hay cô đơn do ngoại cảnh, đó đều là những đặc ân. Bởi nhờ có cô đơn làm chất xúc tác, cảm thức sáng tạo mới bùng vỡ nơi người nghệ sĩ...” - Nhà văn Đỗ Chu cũng từng bảo: “Nghệ sĩ cô đơn được càng tốt!”.

  • Từ ba nguồn tư liệu chính sử, dã sử và dân gian, các nhà văn đã có cơ hội bung trổ trí tưởng tượng và khả năng hư cấu để cho ra đời những áng văn chương sinh động, hấp dẫn viết về lịch sử. Hai tiểu thuyết lịch sử mới ra mắt công chúng là “Từ Dụ Thái hậu” của Trần Thùy Mai và “Thiên địa phong trần” của Hà Thủy Nguyên.

  • Nhân kỉ niệm 62 năm thành lập (17/6/1957 – 17/6/2019), Nhà xuất bản Kim Đồng ra mắt ấn bản mới tập truyện Dưới chân Cầu Mây của nhà văn Nguyên Hồng. Tập truyện gồm ba truyện đặc sắc dành cho thiếu nhi: Đôi chim tan lạcDưới chân Cầu Mây vàCháu gái người mãi võ họ Hoa.

  • NXB Hà Nội và Thư viện Hà Nội tổ chức lễ ra mắt cuốn sách “Thời cuộc và Văn hóa” của nhà báo Hồ Quang Lợi, Phó Chủ tịch Thường trực Hội nhà báo Việt Nam

  • Nhà thơ Hữu Thỉnh đánh giá Huy Cận là người đem tâm nguyện “làm bục nhảy đưa sự sống lên cao”. Nhiều nhà thơ, nhà nghiên cứu có dịp quần tụ nhớ về hồn thơ Huy Cận dịp 100 năm ngày sinh của ông.

  • “Ba năm tồn tại. Thời gian không dài. Nhưng kỷ niệm một thời niên thiếu tươi đẹp hào hùng trong gian khổ làm sao có thể quên!”. Sau hơn 70 năm, khi những mảnh ký ức bắt đầu mờ nhòa, nhà văn Ma Văn Kháng đã “gạn lấy chút sức lực còn lại”, “rờ rẫm nhớ lại những gì đã trải qua”, để tái hiện chân dung thế hệ “măng non cách mạng” giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp.

  • Nhà văn Trần Thùy Mai vừa ra mắt bộ tiểu thuyết lịch sử “Từ Dụ thái hậu” sau một thời gian dài im tiếng. Điều thú vị, cuốn sách đề cập đến lịch sử nhưng được tác giả viết bằng văn phong thuần Việt, với ngôn ngữ nhuần nhị để thu hút độc giả trẻ.

  • Có thể nói, tiểu thuyết gia hiện đại đầu tiên của văn học Việt Nam chính là nhà văn Hồ Biểu Chánh. Với kho tàng đồ sộ 64 cuốn tiểu thuyết, ông được mệnh danh là “người kể chuyện đời” đầy lôi cuốn và có cá tính.

  • Giữ một vị trí khiêm tốn trong đời sống văn chương, nhưng thể loại phi hư cấu thời gian qua vẫn đều đặn đến với độc giả. Thậm chí, nhiều tác phẩm tạo được tiếng vang lớn, được in hàng chục ngàn bản. Chỉ có điều, trong những bảng vàng văn chương trong nước, hiếm khi những tác phẩm thuộc thể loại phi hư cấu được xướng tên.

  • Nhân dịp kỷ niệm 65 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954 – 7/5/2019), NXB Kim Đồng vừa cho ra mắt tập thơ “Điện Biên chiến thắng, Điện Biên thơ” của Đại tá, nhà thơ Ngô Vĩnh Bình tuyển chọn và giới thiệu.

  • Sau 65 năm, những kinh nghiệm lịch sử, bài học quý giá từ chiến thắng Điện Biên Phủ vẫn được học giả trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Không chỉ là góc nhìn riêng của mỗi bên, việc hợp tác để khai thác khối tư liệu, tài liệu lưu trữ - di sản chung của hai dân tộc Pháp - Việt nhằm có thêm sự đối chứng, từ đó làm rõ hơn lịch sử.

  • “ĐIỆN BIÊN PHỦ: 13/3-07/5/1954” là cuốn sách chuyên khảo của Tiến sĩ, Đại úy người Pháp Ivan Cadeau. Cuốn sách cung cấp các tài liệu lưu trữ của Pháp về sự kiện Điện Biên Phủ và chiến tranh tại Đông Dương, trong đó có nhiều tài liệu chưa từng công bố tại Việt Nam.

  • Ngày 30/4/1975 mãi là một ký ức tồn tại sâu thẳm trong tâm trí của những người đã trực tiếp chứng kiến. Đặc biệt là nhà báo, nhà văn Trần Mai Hạnh, người đã dành gần như cả cuộc đời cầm bút của mình để văn bản hóa lại những ký ức lịch sử về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước một thời của dân tộc Việt Nam.

  • Với sự nhân từ, đức độ, Từ Dụ thái hậu được dân gian lưu truyền là người phụ nữ quyền lực có sức ảnh hưởng to lớn dưới triều nhà Nguyễn. Từ cảm hứng ấy, nhà văn xứ Huế Trần Thùy Mai đã viết Từ Dụ thái hậu - một trường thiên tiểu thuyết gồm 69 chương, có thể xem là tiểu thuyết lịch sử dạng “cung đấu” hiếm hoi của văn học đương đại.

  • Sáng ngày 22/4/2019, tại thành phố Hồ Chí Minh, Khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh đã tiến hành buổi toạ đàm khoa học, giới thiệu công trình Nghiên cứu, lí luận, phê bình văn học ở Nam Bộ thời kì 1865-1954.

  • Sách của nhà phê bình khơi gợi tình yêu cuộc sống qua những vẻ đẹp giản dị, nhân văn.