Bờ quê bến đợi bước lang thang

10:05 17/04/2009
LTS: Nhà thơ Trần Hữu Tâm Phương, sinh năm 1949 tại Huế, hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, mất ngày 21 tháng 10 năm 2005. Bài viết sau đây của Hạnh Lê sẽ giúp bạn đọc hiểu thêm về nhà thơ Trần Hữu Tâm Phương.


HẠNH LÊ

Huế hẹp và nhỏ, vì vậy mà bạn bè viết lách vẫn thường gặp nhau. Tôi biết Trần Hữu Tâm Phương từ nửa sau những năm 90 của thế kỷ trước, khi anh là cộng tác viên tích cực của Đài Phát thanh Thừa Thiên Huế. Một người đàn ông nhỏ nhắn, gầy gò, mái tóc bạc sớm và một đôi mắt sáng với nụ cười rất tươi. Gặp Trần Hữu Tâm Phương lần đầu đã thấy một sự tin cậy. Từ con người anh toát lên một niềm trung thực, cẩn trọng. Cái cẩn trọng, trung thực của một người có học, đi ra từ ruộng đồng, sống giữa phố phường mà vẫn giữ được một nề nếp nho phong. Nhỏ nhắn, hiền lành là vậy, nhưng Trần Hữu Tâm Phương làm báo cũng rất kịch liệt. Anh cộng tác với nhiều tờ báo trung ương và địa phương với hàng chục bút danh như: Huy Yên, Nguyên Huy, Trần Bạch Yến, Tố Quyên... Phần lớn các bài viết của anh là ý kiến của một người dân thấy chuyện không đúng thì nói. Những bài viết nhỏ, ngắn, nhưng tác động của nó thì không nhỏ và ngắn chút nào. Nhiều người dân bây giờ vẫn còn nhớ bài viết của anh với cái tựa “Cử tri Thừa Thiên Huế nói gì với Quốc hội”. Một bài viết thẳng và thật đến độ “đụng chạm”. Với bài viết “Nạn nhảy múa đất đai xã Hương Long”, anh còn bị hành hung. Làm báo chuyên nghiệp còn có cơ quan báo chí bảo vệ, làm báo không chuyên thì ai bảo vệ anh? Vậy mà Trần Hữu Tâm Phương vẫn viết, vẫn nói những điều mà anh thấy là sai. Chính trách nhiệm công dân buộc anh lên tiếng. Đọc lại một cách có hệ thống những bài báo của anh in rải rác mười năm qua, mới thấy hết bầu nhiệt huyết, tình yêu nghề nghiệp và niềm đam mê kỳ lạ nghề báo của anh. Cũng ít ai biết rằng từ những năm 70, thế kỷ trước, Trần Hữu Tâm Phương đã có thơ, văn đăng ở tạp chí Đối Diện và Tự Quyết của sinh viên học sinh trong phong trào đấu tranh đô thị miền Nam. Anh cũng là một trong số những học sinh được học và chịu ảnh hưởng tư tưởng của nhà thơ - liệt sĩ Ngô Kha. Với giấy giới thiệu của một số cơ quan báo chí, đoàn thể, Trần Hữu Tâm Phương lặn lội đi và viết. Gầy yếu với chiếc xe đạp cọc cạch, anh ra Hương Trà, anh về Phú Vang... trách nhiệm công dân không thôi đeo bám anh, đeo bám cái nghề báo nhiều khi “ăn cám trả vàng”...

Không chỉ làm báo, Trần Hữu Tâm Phương còn làm thơ, viết tản văn, tiểu phẩm. Từ năm 1969 anh đã cho ra mắt bạn đọc tập thơ “Nắng trên cao” và 30 năm sau, năm 1999, anh ra mắt tập thơ thứ hai có cái tựa “Trời phố núi”. Thơ Trần Hữu Tâm Phương dung dị, mộc mạc. Đó là cảm xúc về một sợi khói, một giọt trăng khuya, một ký ức tuổi thơ chưa kịp phai mờ. “Em có bao giờ nhỏ lại/ Để cùng anh nắm tay chạy trên bờ đê” hay một kỷ niệm ròng ròng máu đỏ: “Em bên góc hè Diệp Kính / Nay phương trời nào / xót xa”. Dù viết về đề tài nào, thơ Trần Hữu Tâm Phương cũng quay về với ruộng đồng quê mẹ, với vùng Hương Long ngoại thành Huế: “Tháng chạp mẹ ra đồng vãi lúa / Đàn trâu nằm đờ đẫn xa xăm”. Đó là những cảm xúc thật, chân thành, nhen nhóm sau những bài báo mà anh đam mê, những cực nhọc, trách nhiệm công dân mà anh đã tự vận vào mình. Anh - người phu quét đường, sáng sớm dậy quét hết những nỗi phiền muộn. Anh - người đàn ông mặc tưởng “Chắc chi bây giờ em còn nhớ / tối ba mươi”.

Cùng với Trí Đức - đứa con trai đầu của anh, tìm lại di cảo thấy thơ anh viết nhiều, trên những trang giấy vở học trò, nét chữ to cứng với những góc vuông mạnh mẽ. Gần đây, Trần Hữu Tâm Phương còn viết tản văn, tiểu phẩm.Tôi gặp trong tản văn của anh những loài hoa trắng, dư âm tiếng gà, một nhành lão mai... hoài niệm và khắc khoải, mà anh có dự định gom lại làm một tập có cái tên “Người vợ đời mới”. Nhưng dự định ấy đã dang dỡ...

Bây giờ thì Trần Hữu Tâm Phương đã không còn thuộc về thế giới phàm trần này nữa. Lần cuối cùng gặp anh tại Đại hội nhà văn Thừa Thiên Huế lần thứ 10, cũng không biết là lúc ấy anh đã đau nặng. Chỉ thấy anh xanh và gầy - cái xanh gầy như là vẫn vậy bao nhiêu năm tháng. Vẫn nụ cười rất tươi và ánh nhìn cương trực. Hôm viếng anh, đi qua cánh đồng Bàu Đá, chợt nhớ cái hôm chưa lâu dạo hè, hai anh em đi tìm nơi nguyên táng Nguyễn Du, lên Khải Thánh Từ, rồi ghé qua Văn Miếu Huế... Cả một vùng quê cỏ ấy xanh xao đẹp khôn tả. Anh tiếc nuối Khải Thánh Từ tan hoang, tiếc nuối thiếu một tấm bia dựng ở xứ đồng Bàu Đá - để hậu sinh còn nhớ nơi thi hào Nguyễn Du đã nằm xuống... trước khi về hẳn ở quê nhà.

Anh nằm xuống, bạn bè văn hữu nhớ thương anh, một người anh, một người bạn lãnh lẽ và nhân hậu. Và lặng lẽ như cuộc đời anh, những trang viết của anh vẫn còn ở đâu đó trong lòng bạn đọc. Nó sẽ sống tiếp cuộc đời còn dang ở của anh...

H.L
(
201/11-05)

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • PHẠM THỊ ANH NGA

    Giới văn học nghệ thuật trong Nam ngoài Bắc cũng như những người từng là học trò của ông thường nói với nhau, tưởng như đùa nhưng lại rất thật, rằng đến Huế mà chưa ghé thăm ông thì coi như là chưa đến Huế, gì thì gì vẫn cứ... thiếu.

  • LÊ HUỲNH LÂM

    Văn chương như một món ăn tinh thần cho mọi người. Đối với những người đam mê, các tác phẩm văn chương như hơi thở, như máu thịt. Ngoài việc là món ăn tinh thần, văn chương như những con đường vươn ra dẫn dắt để nối kết, giao thoa giữa quốc gia này với quốc gia khác, giữa vùng miền văn hóa này với vùng miền văn hóa khác.

  • LÊ VĂN LÂN

    Trong phong trào đô thị Huế, từ phong trào hòa bình 1954 - 1955, phong trào Phật giáo ở Huế những năm 1963 - 1964 đến phong trào li khai ở Huế 1966, có một nhân vật khi nhắc đến hầu như ai cũng biết - đó là bác sĩ Lê Khắc Quyến, nguyên Giám đốc Bệnh viện Trung ương Huế, nguyên Khoa trưởng Đại học Y khoa Huế.

  • ĐỖ MINH ĐIỀN

    Ngày 01/10/2012, một tin vui không chỉ dành riêng cho Huế khi bộ Cửu vị thần công là 1 trong 30 hiện vật/nhóm hiện vật đã được công nhận là Bảo vật Quốc gia Việt Nam.

  • NGUYỄN MINH VỸ
                    Hồi ký

    Thú thật với các bạn Tạp chí Sông Hương và những ai cùng quê là trước Cách mạng Tháng 8-1945 tôi có phần nào "mặc cảm" vì cái gốc Thừa Thiên của mình.

  • LƯƠNG AN

    Vào đầu nửa sau thế kỷ 19, tại Phú Xuân (tức Huế bây giờ), giữa lúc tiếng tăm hai anh em Miên Thẩm và Miên Trinh đang lừng lẫy, một sự kiện bỗng thu hút sự chú ý của giới thơ kinh thành: sự xuất hiện gần như đồng thời của Tam Khanh(1), ba nhà thơ nữ người hoàng tộc, trong đó, Thúc Khanh được ca ngợi nhiều hơn cả.

  • (SHO) Tiến sĩ Lê văn Hảo quê ở Huế, con trai ông Lê Văn Tập - một đại phú gia ở miền Trung, du học Pháp (1953), đỗ Tiến sĩ Đệ Tam cấp ngành Dân tộc học (1961) tại Đại học Sorbonne, làm việc tại Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia Pháp (Centre national de la recherche scientifique) một thời gian rồi về nước (1965) giảng dạy Dân tộc học và Văn minh Việt Nam tại các Đại học Văn khòa Huế, Đại học Văn khoa Sài Gòn.

  • Có một người phụ nữ xứ Huế sinh sống và giảng dạy tại CHLB Đức nhưng luôn dành tình trang trọng chiếc áo dài Việt Nam. Bà là TS triết học Thái Kim Lan, với bà, áo dài làm nên một phần bản sắc vẻ đẹp phụ nữ Việt Nam.

  • NGUYỄN HỒNG TRÂN

    Như chúng ta đã biết qua sách sử, cựu Hoàng đế Bảo Đại có 2 người vợ được hôn thú chính thức. Đó là bà Nguyễn Hữu Thị Lan (tức Nam Phương Hoàng hậu) và bà người Pháp là Monique Marie Eugene Baudot.

  • LÊ VĂN LÂN

    Những thập niên cuối thế kỷ XX, có một nhân vật lúc ẩn lúc hiện như rồng trong mây, như kình ngư giữa đại dương, có mặt ở các thời điểm lịch sử, có tác động đến phong trào giải phóng dân tộc ở Thừa Thiên Huế nói chung và phong trào đô thị Huế nói riêng.

  • PHAN THUẬN AN

    "Hôm nay, Ngài trở về trong lòng đất mẹ thân yêu, trở về giữa tất cả đồng bào con Hồng cháu Lạc, trở về bên núi Ngự, sông Hương...
    "Chúng ta thành kính cầu cho nhà vua đời đời yên nghỉ.
    "Lòng yêu nước của nhà vua còn sáng mãi với sử xanh".

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂN

    LTS: Thời Pháp thuộc cũng như thời tạm chiếm, những “thượng khách” đến du lịch Huế thường được bà công chúa Lương Linh (con gái thứ 19 của vua Thành Thái và là em út của vua Duy Tân) hướng dẫn.

  • LÊ TIẾN DŨNG 

    Một ngày cuối thu tháng Mười năm 1965 tôi nghe qua Đài Tiếng nói Việt Nam một tin quan trọng: Hội Văn nghệ Giải phóng công bố Giải thưởng Văn học Nghệ thuật Nguyễn Đình Chiểu.

  • ĐOÀN XANH 

    Nhà thơ, nhà báo Thúc Tề bị Pháp thủ tiêu khi mới 30 tuổi. Gần 50 năm sau, bí mật được phát lộ, Nhà nước đã truy tặng ông danh hiệu Liệt sĩ với bằng Tổ quốc ghi công.

  • Ở tuổi 75, nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân vẫn miệt mài bên chiếc máy tính để làm việc mỗi ngày. Ông luôn mang theo bên người một chiếc máy ghi âm, loại dùng bằng băng cassette, ông có thói quen ghi lại bất cứ buổi làm việc nào với các phóng viên báo, đài... Đón tôi trong con hẻm nhỏ dẫn vào ngôi nhà ở một quận gần trung tâm Sài Gòn, ông đội chiếc mũ kiểu Huế và những tiếng “răng, ni, nớ” rất Huế của ông mang lại cho tôi sự gần gũi để bắt đầu buổi trò chuyện.
                        Nhà văn ÁNH HƯỜNG (thực hiện)

  • Ngày 9/6/2014, nhà báo Nguyễn Khoa Bội Lan đã vĩnh biệt chúng ta, hưởng thượng thượng thọ 105 tuổi

  • Tôi lặng lẽ đi tìm về nhà "O Thương trống” mà trong lòng có cảm giác như một  đứa con đi xa lâu ngày trở về với mẹ để được nghe mẹ kể chuyện đời, chuyện nghề.

  • Có lẽ cho đến nay, ông Lê Văn Kinh là nghệ nhân làng nghề truyền thống lập nhiều kỷ lục nhất VN. Ông đã lập kỷ lục về bộ tranh thêu bài thơ "Cáo tật thị chúng” của Mãn Giác Thiền sư bằng 14 thứ tiếng. Tiếp đó là bộ Tâm kinh Bát Nhã Ba La Mật. Đầu tháng 5-2014 vừa qua, ông tiếp tục xác lập kỷ lục thứ ba, đó là thêu tay hai bài thơ "Tẩu lộ” và "Hoàng hôn”  -  hai bài thơ trong tập "Nhật ký trong tù” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

  • VÕ SƠN TRUNG

    Con người đó, là nhà văn, nhà văn hóa, nhà từ điển học Đào Đăng Vỹ cực kỳ nổi tiếng ở Huế từ những năm 1940. Ông sinh ngày 1 tháng 2 năm 1908 tại Huế, có tài liệu nói ông mất ngày 7/4/1987 tại California - Mỹ(1).

  • Cật tre được lựa từ rừng già, xung quanh lồng được chạm trổ tuồng tích như một bức tranh hoàn hảo… Những chiếc lồng chim như một tác phẩm nghệ thuật ấy có giá cả chục triệu đồng.