PHAN THUẬN AN
"Hôm nay, Ngài trở về trong lòng đất mẹ thân yêu, trở về giữa tất cả đồng bào con Hồng cháu Lạc, trở về bên núi Ngự, sông Hương...
"Chúng ta thành kính cầu cho nhà vua đời đời yên nghỉ.
"Lòng yêu nước của nhà vua còn sáng mãi với sử xanh".
Vua Duy Tân khi mới lên ngôi (1907) - Ảnh tư liệu của P.T.A
Lời văn nhẹ như thơ. Ý tứ thiết tha như tơ lòng đang chân thành rung cảm. Lời và ý như của một đoạn trong thiên anh hùng ca nói về một đấng anh quân.
Vâng, đó chính là phần cuối trong bài điếu văn do ông Lê Văn Hoan(1) thay mặt bà con cả nước, đọc trước linh cữu Cựu hoàng Duy Tân tại Huế sáng ngày 6-4-1987.
Tang lễ đã diễn ra theo một số nghi thức cổ truyền của dân tộc. Chính bốn người con của Cựu hoàng Duy Tân là Suzie Beauvanne, Georges Vĩnh San, Claude Vĩnh San và Rogé Vĩnh San xưa nay vốn quen với nếp sống phương tây cũng mặc đồ chế Việt Nam, cũng thắp hương, cũng vái lạy và hành lễ nghiêm túc như công chúa Lương Linh (con vua Thành Thái) và hàng ngàn thân nhân khác trong hoàng tộc đang ở tại Huế - và các nơi về dự lễ. Điện Long Ân, nơi quàn di cốt nhà vua, chỉ cách chỗ hạ huyệt chừng 100 mét, nhưng ban tổ chức tang lễ đã có sáng kiến hay, là cho đoàn xe tang đi một vòng quanh thành phố để nhà vua và nhân dân cố đô gặp nhau lần cuối cùng rồi vĩnh biệt!
![]() |
Ba con trai của vua Duy Tân (Georges Vĩnh San, Claude Vĩnh San và Rogé Vĩnh San) trước linh cữu vua cha tại Cung Diên Thọ. |
Ngồi trên đoàn xe tang để tiễn vua đến nơi an nghỉ, tôi thấy lòng mình không khỏi xúc động bồi hồi. Rồi suy nghĩ mênh mang. Sông Hương núi Ngự vẫn còn đây. Thành quách cung điện, lăng tẩm, đền đài đang còn đó. Cảnh gợi nhớ người. Một tiếng rưỡi đồng hồ ngồi trên xe tang, tôi như xem lại một cuốn phim dĩ vãng.
Con người ấy đã tỏ ra thông minh và khí khái từ lúc thiếu thời. Năm 1907, ngay sau khi chứng kiến buổi lễ tấn tôn Hoàng tử Nguyễn Phúc Vĩnh San do Tòa Khâm sứ bên kia Sông Hương quyết định và do Nam Triều bên này Sông Hương tổ chức ở điện Thái Hòa, một nhà báo Pháp đã viết bài tường thuật đăng trên các báo chí "mẫu quốc". Ông đã đi đến kết luận: "Một ngày ở trên ngai vàng đã làm thay đổi hẳn bộ mặt của cậu bé 8 tuổi ấy" (Un jour de trône a complètement changé le visage de cet enfant de huit ans).
Vì có thái độ đối kháng với chính quyền thực dân mà vua Hàm Nghi đã phải xuất bôn để mặc cho chiếc ngai vàng bỏ trống (1885). Vì không chịu đựng nổi sự o ép của nhà nước "bảo hộ" mà vua Thành Thái đã phải giả điên để che mắt Tòa Khâm Sứ trong việc chuẩn bị tấn công. Sau khi phụ hoàng bị buộc phải lưu vong (1907), vua Duy Tân đã chứng tỏ được rằng: "Cha nào con nấy".
Lúc mới 12 tuổi, sau mấy năm học với thầy "giáo đạo" Eberhadt, vua Duy Tân đã nói được tiếng Pháp trôi chảy để đối đáp trực tiếp và ứng xử nhanh nhẹn với các viên Khâm sứ, Toàn quyền.
Toàn quyền Albert Sarraut, trong một lần vào Hoàng cung bệ kiến nhà vua để về nước nghỉ phép, có hỏi rằng:
- Nhân dịp tôi về thăm nhà, đức Kim Thượng cần dùng thứ gì, tôi sẽ xin mua để biếu Ngài.
- Trẫm cần sách để đọc. Trẫm muốn đọc về Napoléon Bonaparte, người anh hùng cách mạng.
- Đức Kim Thượng hãy đọc cho hết sách ở Huế đã, đọc chi đến sách ở bên Tây!
Tuy nhiên, sau đó, để làm đẹp lòng nhà vua, Albert Sarraut vẫn mua quà biếu cho Ngài một bộ sách viết về nhân vật lịch sử ấy.
Tư tưởng nhà vua đã chịu ảnh hưởng nhiều ở bộ sách này(2)
Một hôm, vừa nghe tin Khâm Sứ Mahé đem người lên đào mả vua Tự Đức để lấy vàng ngọc châu báu, vua Duy Tân tức tốc thân hành lên đó để ngăn chặn hành vi ngang ngược này. Nhưng, khi lên đến nơi thì đã muộn, mọi việc đã xong xuôi. Vua vô cùng căm phẫn. Khi đi ra cửa Vụ Khiêm Môn, nhà vua vô cùng căm phần. Khi đi ra cửa vụ Khiêm Môn, nhà vua gặp thầy dạy của mình là ông Cao Xuân Dục từ Đại Nội mới lên để nghe ngóng tình hình, vua Duy Tân bộc lộ nỗi đau xót tự đáy lòng:
- Thầy ơi, hồi còn cha tôi tại vị thì người ta không làm như vậy. Nay họ đặt tôi lên làm ấu chúa để đào mả, phá nhà!
- Biết vậy thì đức Kim Thượng nên gắng học.
- Thầy nói tôi nghe cũng phải. Nay cha tôi đã ở xa. Tôi nguyện gắng học và xin thầy giúp cho.
Ngay sau đó, vua viết một lá thư gửi cho Pháp đình, nói về sự kiện vừa xảy ra ấy, đề nghị triều đình Pháp khiển trách và hạch tội mấy viên quan bảo hộ bên này. Vua nhờ viên toàn quyền Đông Dương chuyển thư giúp. Nhưng, sau khi đọc lá thư, viên Toàn quyền chẳng những không gửi qua Pháp, mà còn đích thân đem vào cung Diên Thọ trong Đại Nội đưa cho bà Đích xem. Bà Đích là mẹ đích của vua Duy Tân, vợ chính thức của vua Thành Thái. Bà này không có con nhưng vẫn có nhiều quyền. Bà tên là Nguyễn Gia Thị Anh, con gái của đại thần Nguyễn Thân. Do đó, bà có thế lực lớn trong triều. Viên toàn quyền đòi Bà Đích khiển trách vua Duy Tân về việc viết bức thư ấy. Bà cho gọi vua Duy Tân từ điện Càn Thành qua cung Diên Thọ. Trước mặt đại thần Nguyễn Thân và viên Toàn Quyền Pháp, bà bắt buộc nhà vua phải xin lỗi viên Toàn quyền về hành động vừa qua. Trước áp lực, vua phải làm việc đó một cách bất đắc dĩ, trong cổ họng phải ngậm đắng nuốt cay, và trong tâm can tràn đầy một niềm uất hận.
Uất hận chẳng những đối với chính quyền thực dân mà còn đối với cả thế lực hợp tác với nó của một số nhân vật tai mắt trong nội bộ Nam Triều. Chúng ta phải thấy rõ tâm trạng ấy của vua Duy Tân để hiểu về hành động của ông hơn.
Từ đó, nhà vua càng quyết chí làm thay đổi tình hình bằng cách đánh đuổi người Pháp ra khỏi Việt Nam.
Ý chí, tài năng và nghị lực của vị vua trẻ ngày càng tăng theo với tuổi đời. Năm 1916, cũng là năm vua 16 tuổi, trạng huống băng hoại của triều đình Huế, tình cảnh khổ đau của dân tộc Việt Nam, sự biến chuyển thuận lợi của tình hình thế giới, và sự kích thích cổ vũ chính đáng của hai vị sĩ phu yêu nước Thái Phiên và Trần Cao Vân trong Việt Nam Quang Phục hội càng làm cho nhà vua đi đến quyết định dứt khoát cuối cùng.
Trong lá thư mà Trần Cao Vân nhờ người tài xế tên là Phạm Hữu Khánh trao bí mật cho vua Duy Tân, có mấy đoạn viết:
- Tha Mỹ quốc hắc nô chủng tộc, ngũ thập niên do khả tự cường; huống ngô dâng hoàng đế tử tôn, mẫm ngũ triệu khởi cam chung nhược? (Kìa nước Mỹ dòng giống rợ đen, năm mươi năm còn có thể tự cường; huống dân ta con cháu nhà vua, hai mươi lăm triệu nỡ đành hèn yếu!)
- Phụ hoàng Hoàng để hà tội kiến thiên; Dực tôn Tôn lăng hà cố kiên quật? (Đức vua cha của Ngài vì tội gì mà bị đày; lăng tẩm vua Tự Đức vì cớ gì mà bị bới?)(3).
Những lời lẽ đánh động cụ thể và chính xác ấy đã càng làm cho nhà vua xúc cảm hơn trong tình cảnh nước mất nhà tan. Nó có tác dụng thực tế như đổ dầu vào lửa.
Và ngọn lửa đã bùng lên soi sáng cả bầu trời Việt Nam vào đêm mồng 2 rạng ngày mồng 3 tháng 5 năm 1916 khi nhà vua giả dạng người thường trốn ra khỏi Hoàng Thành để kết hợp với lực lượng đã chuẩn bị ở bên ngoài. Nhưng vô cùng đáng tiếc, ngọn lửa ấy bị dập tắt ngay vì một tên phản bội!
Sau đó mấy hôm, nhà vua và phe khởi nghĩa đều bị bắt giam chờ ngày xét xử. Nam Triều nghị án, nhưng chung quyết lại là từ phía Tòa Khâm. Thượng Thư bộ Học Kiêm Cơ mật viện đại thần Hồ Đắc Trung phụ trách việc thảo án. Từ trong ngục, Trần Cao Vân bí mật viết thư riêng cho Hồ Đắc Trung khẩn khoản xin để hết tội cho mình và hãy tìm cách cứu vua. Trong thư có viết:
- Trung là ai, nghĩa là ai, cân đai võng lọng là ai, thà để cô thân tử biệt.
Trời còn đó, đất còn đó, xã tắc sơn hà còn đó, mong cho thánh thượng sanh toàn.
Nhiều chiếc đầu rơi trên cống chém An Hòa. Chính quyền Pháp đưa vua Duy Tân vào giam lõng ở Vũng Tàu để chờ ngày đày biệt xứ.
Ngay hôm mới đến Vũng Tàu, vua Duy Tân đã sửa soạn khăn áo chỉnh tề để đến bái yết vua Thành Thái (cũng đang bị giam lỏng tại đây) và để tạ tội trước vua cha. Trong phút giây mừng mừng tủi tủi, vua Duy Tân sụp xuống lạy phụ hoàng, xin tha lỗi cho mình vì không làm tròn trách nhiệm đối với non sông. Vua Thành Thái liền đỡ con dậy, ôm con vào lòng và an ủi con bằng tiếng nói nghẹn ngào:
"Việc đó đáng lẽ cha phải làm tròn. Nhưng cha thực hiện chưa xong thì con phải tiếp tục. Chẳng những con không có tội gì đối với cha, mà con còn có công đối với đất nước".
Sau đó không lâu, cả hai vị "xuất đế" phải xuống tàu để bắt đầu cuộc sống vong quốc tha hương.
Vua Duy Tân đã từ giã hai mươi lăm triệu đồng bào để ra đi giữa lúc:
Khô héo lá gan cây đỉnh Ngự
Đầy vơi giọt lệ nước sông Hương.
Hôm nay vua trở về cố hương giữa hơn 60 triệu trái tim ngưỡng mộ. Đồng bào Huế hôm nay đang cử hành một tang lễ lớn.
Không, họ đang đón tiếp một người thân đi xa trở về trong khúc khải hoàn ca. Bà con từ đầu phường cuối ngõ đều kéo ra đứng chật hai bên vệ đường có đoàn xe tang đi qua. Một phút bùi ngùi, một khắc hoài niệm. Đoàn xe đi chậm hẳn "trước bến Phu Văn Lâu" như để nghe câu hò mái nhì man mác năm xưa của cụ Ưng Bình Thúc Giạ. Đoàn xe ngừng hẳn trước Ngọ Môn để nhà vua nhìn lại Hoàng cung lần cuối cùng. Ra khỏi cửa Thượng Tứ là bến Thương Bạc, nơi mà đêm ấy nhà vua đã được Thái Phiên và Trần Cao Vân đón rước xuống thuyền…
Những chuỗi hình ảnh và sự kiện lịch sử tương tự như thế cứ tiếp tục tái hiện trong tôi khi đoàn xe đang đi qua cầu Trường Tiền và đến khi kết thúc lộ trình đưa đám. Tất cả đều như hiện thực. Hiện thực như một người anh hùng đang ca khúc khải hoàn trở lại thành đô.
Không, đây là một ông vua dám đem chiếc ngai vàng ra thách thức với chính quyền thực dân để đánh đổi quyền tự chủ và nền độc lập cho dân tộc. Chính nhờ sự hy sinh cao cả ấy mà hôm nay Cựu hoàng Duy Tân được trở về an giấc ngàn thu giữa lòng tổ quốc yêu dấu dưới chân núi Ngự, bên bờ sông Hương.
P.T.A.
(SH32/08-88)
-------------
(1) Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Bình Trị Thiên,
(2) Câu chuyện này và mấy câu chuyện tiếp theo đều viết theo lời kể của bà Nguyễn Thị Định, mẹ đẻ của vua Duy Tân. Chúng tôi đã ghi lại một số sự kiện về vua Duy Tân do bà kể cho nghe vào năm 1969 tại nhà riêng của bà trong thành Nội. Bà mất năm 1972, mộ chôn cạnh lăng vua Thành Thái và lăng vua Duy Tân hiện nay.
(3) Xem: Hành Sơn, cụ Trần Cao Vân, Minh Tân xuất bản, Paris, 1952, trang 80-81.
NGUYỄN THẾ Danh nhân Đặng Huy Trứ (1825 - 1874) sống cách chúng ta gần 200 năm, nhưng cuộc đời và hành trạng của ông chứa đựng tấm gương nhân cách của một nhà nho, một sĩ phu yêu nước thế kỷ XIX.
PHẠM XUÂN NGUYÊN
Một ông vua triều Nguyễn một trăm năm sau "sống lại", tự thú với các thế hệ mai hậu về cuộc đời làm người và làm vua của mình.
Kỷ niệm 150 năm ngày sinh vua Hàm Nghi (3/8/1871 - 3/8/2021), Hội Nghiên cứu và Phát triển di sản văn hóa Huế tổ chức cuộc tọa đàm/ sinh hoạt khoa học “Hàm Nghi - nhà vua bị lưu đày, nghệ sĩ tạo hình Tử Xuân ở Alger”.
DƯƠNG PHƯỚC THU
Tháng 5 năm 2020, tỉnh Thừa Thiên Huế quyết định lấy tên Nhà báo - Nhà lý luận báo chí cách mạng Hải Triều Nguyễn Khoa Văn để đặt tên cho Giải Báo chí của tỉnh. Mùa giải năm 2021 là năm thứ hai thực hiện quyết định này. Để bạn đọc có điều kiện hiểu sâu thêm về cuộc đời hoạt động báo chí và cách mạng của Hải Triều, nhân kỷ niệm 96 năm Ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam (21/6/1925 - 21/6/2021), Sông Hương trân trọng giới thiệu bài viết về Nhà báo Hải Triều Nguyễn Khoa Văn.
LGT: Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Thừa Thiên Huế luôn kỳ vọng vào sự phát triển của đội ngũ sáng tác, nhất là các văn nghệ sỹ trẻ với những sáng tạo để lại dấu ấn lớn trong đời sống xã hội, gắn bó với văn hóa Huế, sự đổi thay về kinh tế - xã hội của vùng đất Cố đô. Trước thềm Đại hội, Sông Hương có cuộc trò chuyện với các văn nghệ sỹ trẻ của các hội chuyên ngành thành viên Liên hiệp Hội.
THUẬN AN
Không có điều kiện để bao quát hết những ký giả viết văn của xứ Huế đương đại, trong khoảng vài chục năm trở lại đây, nhưng tôi nghĩ đó là một đề tài thú vị và đòi hỏi khá nhiều tâm lực. Trong khuôn khổ bài viết này cũng chỉ có thể chấm phá vài ba gương mặt.
Trên đường Nguyễn Sinh Cung qua Đập Đá một đoạn, chúng ta sẽ nhìn thấy một ngôi biệt thự đẹp và sang trọng được xây dựng vào khoảng những thập niên đầu của thế kỷ XX mang phong cách Đông Dương với sự kết hợp hài hòa giữa kiến trúc Á và Âu đang dần bị xuống cấp nghiêm trọng và lãng quên.
NGUYỄN ĐẮC XUÂN
Bạn đọc và những người am hiểu Huế chắc đã không lạ với tên tuổi của những người cháu và chắt của nhà thơ Tuy Lý Vương như Ưng Bình Thúc Giạ Thị, Ưng Quả, Bửu Cầm, Bửu Hội, Bửu Huyền (nhạc sĩ), Bửu Chỉ (họa sĩ) v.v.
ĐỖ MINH ĐIỀN
Sơ lược quê hương và gia thế Quảng Xuyên Trần Đạo Tiềm
Tiến sĩ Trần Đạo công, húy Tiềm 潛, hiệu là Quảng Xuyên 廣川, sinh ngày 07 tháng 10 năm 1859, nguyên quán làng Đông Lâm 東林 社, tổng Phước Yên 福煙 總, huyện Quảng Điền 廣田 縣 (nay là xã Quảng Vinh, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế).
NGÔ MINH
Đến năm 2018 này, nhà văn Huế tuổi U80, trên 80, còn sống cả chục người. Có thể gọi đây là THẾ HỆ VÀNG của Huế, thế hệ trụ cột làm nên diện mạo văn chương Huế từ sau năm 1975.
VÕ VINH QUANG
Nguyễn Cư Trinh 阮居貞 (1716 - 1767) là danh nhân nổi bật đất Phú Xuân ở thế kỷ XVIII. Ông là con thứ 7 của Nguyễn Đăng Đệ (1669 - 1727) với bà vợ thứ Ngô Thị Liên (1692 - 1726)1.
ĐÀO SỸ QUANG
Huế đi vào trong tôi từ cái thuở học trò thông qua những bài học lịch sử.
LTS: Ưng Bình Thúc Giạ Thị (1877 - 1961) là nhà thơ nổi tiếng trên thi đàn xứ Huế nửa đầu thế kỷ XX. Ông được các văn nhân thi sĩ đương thời suy tôn là chủ soái “Vỹ Hương thi xã” (1933 - 1945) và “Hương Bình thi xã” (1951 - 1961).
TRẦN VIẾT ĐIỀN
Thời loạn xã hội đảo điên, phong hóa suy đồi, quan tham dân đói,… thường có những người thầy giỏi và đức độ, chăm lo giáo dục nhằm tạo những người học trò tài đức để chuyển loạn thành trị, cứu nước cứu dân… ấy là công lệ của lịch sử.
TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG
ĐINH CƯỜNG
Ta sẽ đến đứng bên bờ nước cũ
Ngó bên kia vườn biếc lá hoa lừng
(Bùi Giáng)
HẠ NGUYÊN
“Cái gì người ta có thể đùa, nhưng với mình, có một cái không đùa được, đó là viết văn”.
(Bửu Ý)