Trong chân trời phiếm định

15:35 01/09/2008
LÊ VIẾT THỌTự nghìn năm, lụa đã hiện diện trong đời sống dân tộc Việt. Nghề tằm tang đến sớm, trong những di chỉ khảo cổ thuộc hậu kỳ đá mới, cách ngày nay khoảng 5000 năm, đã có dấu vết của vải, có dọi xe chỉ bằng đất nung. Chất liệu mỏng, nhẹ, thoáng và đẹp một cách tự nhiên, nền nã, óng ả này rất phù hợp với môi trường tự nhiên của cư dân phương nam làm nông nghiệp.

Tranh lụa Chơi Ô Ăn Quan của Nguyễn Phan Chánh

Cái yếm nâu để đi làm; yếm hồng, yếm thắm, yếm đào đi hội; chiếc áo cánh khoác hờ lên; chiếc váy nâu gụ - màu của đất hay chiếc áo dài tứ thân, năm thân và cả chiếc áo dài tân thời khởi từ những năm 30 của thế kỷ này đi nữa đều là bản hoà ca của màu, sắc và chất liệu. Đó là lần nhập thân đầu tiên của chất liệu vào truyền thống thẩm mĩ dân tộc.
Lần nhập thân thứ hai, lụa hoá thân vào nền nghệ thuật tạo hình dân tộc - mĩ thuật của người Việt. Khởi điểm cho cuộc hóa thân ấy, có thể là đã rất dài lâu từ khi có sự hiện hữu của lụa, cũng có thể là mãi ở thế kỷ XVIII-XIX với những tranh lụa vẽ phong cảnh, vẽ Phật hay chân dung Nguyễn Trãi, Phùng Khắc Khoan... còn lại đến giờ - về điểm này, cho đến nay, chúng ta chưa có một mốc niên đại chính xác. Đúng hơn, có lẽ là phải có một sự dấn thân dài lâu của những người nghệ sĩ vô danh để phát hiện ra những vẻ đẹp của chất liệu mà kết quả là tranh lụa đã phản ánh chính xác cái thần của văn hoá Việt, một nét trong trạng thái tâm hồn Việt.
Cuộc nhập thân lần thứ hai này đã mang lại cho lụa nhiều lắm nhưng trước hết và trên hết là đánh thức khả năng của chất liệu và thức nhận không gian của tranh lụa để chiếm lĩnh nó theo mắt nhìn của thẩm mĩ Việt. Tranh lụa Việt Nam truyền thống thường cắt hẹp không gian và dàn về đường nét, sắc màu ra sát mép tranh chứ không để trắng không gian tranh bằng nền lụa nhiều và thoáng như tranh lụa Trung Quốc cũng không nhiều tranh sinh hoạt, lâu đài, thành quách và thần linh như truyền thống tranh lụa Trung Quốc và Nhật Bản. Tranh lụa Việt Nam không đứng riêng mà là có nét riêng, mang đậm cảm thức và phong cách sống của văn hoá dân tộc.
Nhưng lụa sẽ chỉ mãi mãi là ký ức vọng về từ truyền thống nếu không có cuộc tái sinh trở lại vào nền mỹ thuật dân tộc được diễn ra từ những năm 30 của thế kỷ này. Chính trong bầu không khí đặc nghẽn những xu hướng mới đến từ cuộc tương hợp Đông - Tây, nền mỹ thuật dân tộc đang náo nức trước chất liệu mới: sơn dầu, những tưởng chất liệu lụa truyền thống đã mất hẳn chỗ đứng trong cuộc sống hiện đại thì ngược lại, đã có một cuộc tái sinh. Có lẽ những trở mình chật vật trong từng con người và sự thành hình một cái nhìn về thế giới đã vừa là cơ sở cho một không gian tạo hình mới, vừa đánh thức những thức nhận về truyền thống để có được một lần hồi sinh. Từ Nguyễn Phan Chánh rồi Tô Ngọc Vân, Lê Phổ, Lê Thị Lựu, Nguyễn Tiến Chung, Lương Xuân Nhị... đã thực sự hồi sinh cho lụa.

Hãy bắt đầu từ Nguyễn Phan Chánh.
Nền nã và bình dị làm một người nhà quê trong nghệ thuật hiện đại với: Chơi ô ăn quan, Lên đồng, Rửa rau cầu ao, Em bé cho chim ăn... từ những bài học trong nhà trường về lối tạo hình trên sơn dầu, áp dụng phép viễn cận của hội hoạ cổ điển Âu châu, Nguyễn Phan Chánh đi vào tranh lụa. Ở tuổi 39, 40 của đời mình, Nguyễn Phan Chánh đã đạt đến đỉnh cao của sự nghiệp nghệ thuật và tạo lập một bước ngoặt quan trọng cho nghệ thuật tranh lụa Việt . Bình tĩnh và tự trọng để là mình qua tiếng vọng gián tiếp của thời gian và hồi tưởng - một quãng lùi mơ hồ để Nguyễn Phan Chánh là Nguyễn Phan Chánh. Tôn phẩm chất của lụa, cái vẻ trắng ngà óng ả và tươi mát qua chất da thịt mịn màng của người phụ nữ và gam màu nâu đen đậm đà, thô mộc qua bố cục theo lối bố cục tranh giá vẽ của Châu Âu, gần với tự nhiên của mắt nhìn hơn tranh lụa truyền thống, Nguyễn Phan Chánh đã dồn hết cái "tâm chất tinh thần" của mình bừng sáng trên lụa và cho lụa để tạo thành "thời cổ điển của Nguyễn Phan Chánh" (Chữ của Thái Bá Vân). Để rồi nửa thế kỷ sau đó, cho dù ông có cố gắng để lăn mình vào hiện thực, đằm trong xóm làng quê hương, trau dồi lại hình hoạ hàn lâm, bồng bềnh theo những cảm xúc mới với đĩa màu trở nên xanh non và nâu non thì cũng không thể nào tìm thấy lại sự thăng bằng cổ điển ấy - "Không có hai mùa xuân trong một đời người", Văn Cao chẳng đã từng nói vậy.
Từ Nguyễn Phan Chánh nền nã, bình dị; thiều quang Lê Phổ ở thời kỳ cổ điển (từ 1934 đến 1945) với Người thiếu phụ ngồi, Chim ngói... ảnh hưởng nhiều của hội hoạ Đường - Tống với nét bút thanh thoát, mềm mại; vừa mong manh, tế nhị, vừa lạnh lùng, chay tịnh qua độc sắc; Lê Thị Lựu êm dịu ánh sáng, nhẹ nhàng sắc màu, mềm mại trong nét bút; rồi Nguyễn Thụ, Kim Bạch, Lương Xuân Đoàn... với nhiều tìm tòi đã tạo cho tranh lụa Việt Nam những bước đi song hành cùng thời đại và là hiện tại với nghệ thuật.
Đi trọn đến cuối con đường, lụa, qua ba lần thấu nhập vào cõi người, ba lần phô diễn những khả năng của chất liệu. Đặt một nét bút trên lụa, nét bút đi êm và ngọt, mảng màu thấm nước và loang vừa độ. Lụa vốn mang sẵn cái đẹp nõn nà, óng chuốt và thanh nhẹ như tạng chất Á Đông, khác biệt với chất đặc sánh của sơn dầu, bản chất lộng lẫy và huyền thoại của sơn mài. Màu sắc tranh lụa không chói chang về sắc độ, không đối chọi nhau mà mảng màu phải nhẹ đi, đến nỗi cái sắc trắng tinh, vô bản sắc cũng phải thấm nhẹ một màu nâu hay lam nhạt. Và chính như thế lại càng tạo trong người thưởng ngoạn những cảm giác về sắc trắng thật, tinh khôi chứ không phải là cái màu trắng tinh những vô bản sắc. Yêu tha thiết cái cuộc sống giản dị và êm ái, nồng nàn trong vẻ bề ngoài giản đơn và u tịch, thế giới phiếm định của lụa không là thực mà được gián tiếp hoá. Phiếm định không gian, phiếm định thời gian, không gian của lụa không dung hiện thực của mắt nhìn, cũng không nuốt trôi mọi táo tợn trong thể nghiệm, nó chỉ đón nhận những tâm hồn an bằng, trọn lòng cho nghệ thuật. Bởi thế, các họa sĩ trẻ hôm nay không thật gần với lụa. Mê mải trong những thể nghiệm của hình và sắc trong sơn dầu hay lăn lộn để mở ra cho sơn mài một phổ màu rộng hơn nhưng ít người trong họ mặn lòng để thức nhận những thế mạnh của chất liệu lụa. Các cuộc triển lãm gần đây có thật ít những tranh lụa thành công.
Để tìm thấy lại một mùa cổ điển cho lụa, liệu ta còn có thể mong chờ một cuộc nhập thân với những tao ngộ mới chăng? Điều này không hoàn toàn là viễn tưởng. Bởi một chất liệu đã có truyền thống trong nền mĩ thuật dân tộc với những thế mạnh đã được khẳng định so với các chất liệu khác, tranh lụa ẩn chứa một trạng thái của linh hồn dân tộc thì chất liệu đó sẽ không bao giờ là lạc hậu với thời đại. Hơn thế, khi mà những tiến bộ kỹ thuật của nền văn minh kĩ trị đang dần đưa con người rời xa với tự nhiên thì lụa với bẩm chất tự nhiên, vừa thô mộc, vừa sang trọng hoàn toàn có thể tìm thấy chỗ đứng của mình. Chỉ có những con người đang bất lực trước ngôn ngữ của chất liệu.
L.V.T

(nguồn: TCSH số 162 - 08 - 2002)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • BẠCH DIỆP

    "Có lẽ đau khổ lại tốt cho con người. Nhà nghệ sĩ có thể làm gì nếu anh ta hạnh phúc? Anh ta liệu có muốn làm bất cứ điều gì không? Nghệ thuật, rốt cuộc chính là chống lại sự khắc nghiệt của cuộc đời".

  • ĐINH CƯỜNG

    Kỷ niệm 100 năm ngày sinh của họa sĩ Nguyễn Phan Chánh

     

  • PHAN THANH BÌNH

    Trong lịch sử mỹ thuật thế giới, từ Âu châu đến Á châu đã ghi nhận nhiều hoàng đế từng cầm bút vẽ, nặn tượng và không ít bảo tàng mỹ thuật ở các quốc gia có lưu giữ những tác phẩm mỹ thuật mà tác giả là những vị vua danh tiếng.

  • KHẢ HÂN

    Là một trong những họa sĩ chủ soái của trường phái Ấn tượng nổi tiếng với phong cách làm việc ngoài trời một cách nhất quán, Monet đã để lại rất nhiều bức vẽ đầy ấn tượng về băng, tuyết và sương giá.

  • LINH PHƯƠNG

    Một lần nữa có thể thấy rằng, mỹ thuật Huế trong dòng chảy của mình, không ồn ào mà lại âm thầm trong việc theo đuổi những tiếng gọi nghệ thuật thuộc nhiều kiểu dạng ngôn ngữ nghệ thuật khác nhau để có được hiệu quả thẩm mỹ tốt nhất.

  • PHƯỢNG LÂM

    Họa sĩ Léopold Franckowiak, đến nay ông đã có bảy năm sống ở Việt Nam. Có thể nói, Việt Nam là nơi gợi cảm hứng sáng tác mạnh mẽ nhất với ông trong thời điểm này.

  • TRẦN DUY MINH

    Trong hội họa, mùa thu là mùa quyến rũ với các họa sĩ, bởi mùa thu là mùa của thi tính, của cái đẹp và cũng là mùa của nỗi buồn. Mùa thu là mùa của sự úa tàn, của những phôi pha, của những gì kết thúc nhưng đó cũng là thời điểm để khởi đầu cho một hành trình mới của sự vật.

  • LÝ HỮU NGUYÊN

    Nguyễn Trọng Khôi là họa sĩ song hành cả hiện thực và trừu tượng.

  • VŨ LINH

    Từ khởi thủy của nghệ thuật tạo hình, động vật đã là một đề tài được lựa chọn. Những hình vẽ sơ khai nhất được tìm thấy trong các hang động, những hình thù khắc trên đá, trên xương động vật, trên các dụng cụ bằng đồng...

  • TRẦN DIỄM THY

    Trong nghệ thuật tạo hình trên thế giới cũng như ở Việt Nam, hình tượng trẻ con luôn được xem như là một nguồn mạch của sáng tạo nghệ thuật.

  • LÊ TRIỀU HẢI

    Nếu như nghệ thuật hiện đại có những cách thức đi ngược chiều với quan niệm nghệ thuật là sự mô phỏng của Plato và Aristotle, thì ngày nay, trào lưu nghệ thuật cực thực lại hướng tới mô phỏng ngoại giới một cách tinh vi, nếu không muốn nói là đẩy tới cực đoan nhất có thể trong việc mô phỏng vật thể.

  • NGUYỄN THỊ HÒA

    Huế những năm đầu thế kỷ XX, Nhà nước phong kiến triều Nguyễn đã ban hành nhiều chính sách, trong đó có chính sách văn hóa hướng tới nhiều khía cạnh của đời sống xã hội như văn chương nghệ thuật, giáo dục, giao lưu, tiếp xúc văn hóa, bảo tồn di sản… nhằm đáp ứng nhu cầu văn hóa nghệ thuật của cộng đồng, với sự xuất hiện trào lưu học thuật tân tiến của châu Âu, mỹ thuật được giao lưu biểu hiện qua các hoạt động và sáng tác nghệ thuật.

  • ĐẶNG TRIỆU VĂN

    Như tên gọi của nó, trào lưu tối giản trong nghệ thuật hướng tới tiết chế mọi yếu tố cấu nên tác phẩm nghệ thuật.

  • NGUYỄN HOÀNG VY

    Từ khi Phân tâm học của Freud ra đời, người ta mới có thể lý giải được phần nào nguyên do xui khiến người nghệ sĩ lao vào sáng tạo nghệ thuật, có một sức mạnh to lớn từ vô thức khiến người nghệ sĩ mộng mơ, đó là sức mạnh bất khả từ chối.

  • VŨ LINH

    Với hội họa Việt Nam, sơn mài là chất liệu không xa lạ. Những tên tuổi lớn từng thành công trên chất liệu sơn mài phải kể đến như: Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Sáng, Nguyễn Đỗ Cung, Phan Kế An, Nguyễn Tư Nghiêm...

  • TRÚC LÂM

    Trong văn hóa nhân loại, lợn như là một biểu tượng phổ quát. Lợn được xem là tổ phụ sáng lập một trong bốn đẳng cấp trong xã hội Meslanesie. Nữ thần trời và mẹ vĩnh cửu của các tinh tú ở Ai Cập cổ đại lại thường được tạo hình trên các bùa đeo với những họa tiết của lợn nái đang cho đàn con bú.

  • VŨ PHƯƠNG

    Trong dòng nghệ thuật biểu ý, dựa trên ngôn ngữ biểu hiện ở Huế, thì Trương Thế Linh nổi lên như một hiện tượng tiêu biểu.

  • KHẢ HÂN

    Francesco Clemente sinh năm 1952, ở Naples, Italy. Ông xuất hiện vào thời điểm khi mà Thế chiến II vẫn còn là một ký ức dai dẳng khắc sâu thành những vết nứt trong tâm thức sáng tạo của cộng đồng nghệ sĩ ở dải đất ven vùng biển Địa Trung Hải này.

  • TRẦN PHƯƠNG ĐÔNG

    Lê Kinh Tài là một trong những nghệ sĩ đương đại rất thành công ở Việt Nam hiện nay. Sự thành công được minh chứng không chỉ ở số lượng tác phẩm lớn, những tìm tòi nghệ thuật không mệt mỏi mà cả ở giá tranh của ông trên thị trường quốc tế.