Họa sĩ Huỳnh Phương Đông: Vẽ cả cuộc đời

14:58 07/07/2014

Năm nay đã 90 tuổi, gần 70 năm lao động nghệ thuật, họa sĩ Huỳnh Phương Đông đã vẽ 20.000 bức tranh, ký họa.

Ông tâm sự: “Trong 70 năm lao động miệt mài, hết 30 năm đã diễn ra trong khói lửa chiến tranh, ngót 40 năm trong hòa bình xây dựng đất nước. Nhưng số tác phẩm về chiến tranh cách mạng vẫn nhiều hơn tranh về hòa bình. Đó là một thực tại không thể phủ nhận và cũng là… khuyết điểm của tôi. Đây là tấm lòng, tình cảm của tôi với nhiều nỗi băn khoăn đối với cuộc chiến đấu của dân tộc, quá lớn lao, quá cao đẹp, quá nhiều anh hùng, chiến sĩ, liệt sĩ. Tôi chưa thể ghi được, vẽ được hết sự ác liệt của chiến tranh, nỗi gian nan, nét anh hùng của nhân dân ta, dân tộc ta với nhiều gương sáng tuyệt vời”.

Sợ hết cơ hội

Tham gia hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của dân tộc với tư cách là họa sĩ - chiến sĩ, mỗi bức tranh về cuộc chiến bảo vệ đất nước mà ông đã vẽ đều thấm máu của đồng đội.

Vẽ bất cứ khi nào có thể là nhu cầu của Huỳnh Phương Đông. Ngày ở chiến trường, ông luôn mang theo bên mình bút vẽ, hộp màu và mẩu than chì đựng trong một thùng đạn méo mó của Mỹ. Chất liệu vẽ rất hiếm hoi nên ông luôn tùy cơ ứng biến, sử dụng bất cứ loại giấy nào mình có: những mẩu carton, giấy vụn, bìa lịch, truyền đơn… Ông phải dùng bút vẽ tự tạo bằng những cành cây. Khi thiếu chất pha sơn, ông phải dùng màu nguyên bơm ra từ tuýp màu. Bất chấp điều kiện thiếu thốn trăm bề ấy, ông liên tục phác thảo và ký họa khung cảnh chiến trường, các đơn vị chiến đấu, cuộc sống hàng ngày trong khu căn cứ, chân dung người đồng chí, chân dung cán bộ lãnh đạo và chiến sĩ, chân dung một người tù binh Mỹ. Có lần đoàn đi tải gạo, đến đoạn Cần Xe - Trảng Bom gặp máy bay địch bắn phá. Khi vừa tan cuộc, khói lửa chung quanh còn bốc lên ngùn ngụt đã thấy ông Ba Đông lấy giấy bút ra, đứng giữa đồng không ghi ghi chép chép. “Có gì đảm bảo máy bay địch không quay trở lại quần đảo như bao lần trước, trong khi đó họa sĩ này coi như không”, họa sĩ Lê Thanh Trừ nhớ lại. Khi đi vẽ tranh ở chiến trường Đồng Tháp Mười những năm ác liệt 1972 - 1973, có những trận kẻ thù chỉ ở cách ông... 50 phân! Kẻ trên bờ, người dưới nước! Có trận 25 chiếc trực thăng đã chụp xuống đơn vị ông... ở nhà anh em đã mặc niệm (!).

Sau giờ chiến đấu, từ những bức phác thảo, ông triển khai thành tranh màu nước hoặc sơn dầu. Những tác phẩm lớn như: Trận Ấp Bắc, Trận Bình Giã, Trận cầu Chữ Y, Trận Junction city… ra đời như thế, phản ánh sự căng thẳng, khốc liệt của trận đánh và cảm giác hồi hộp, bức bối. Người xem dường như bị hút vào trận đánh với những cận cảnh sinh động chỉ có được khi họa sĩ trực tiếp có mặt tại đó. Nhiều cảnh được vẽ bằng những mảng màu đỏ dữ dội, ma quái, cho thấy sự khốc liệt của chiến trường. Ông nhớ lại: “Tôi vẽ ngay sau mỗi trận đánh bởi tôi sợ mình có thể hy sinh và không còn cơ hội được vẽ”.

Ông vẽ rất nhiều chân dung và nhiều người đã hy sinh ngay sau khi ông vẽ. Những bức chân dung thường được ông vẽ rất nhanh, ngay tại chỗ, rất chân thực và sống động, gây ấn tượng đậm nét cho người xem. Bà Johanna Branson, tiến sĩ lịch sử mỹ thuật, người Mỹ, nhận xét: “Ông luôn chú tâm quan sát, ghi lại hình ảnh những người xung quanh mình. Nhưng ông không đơn giản chỉ vẽ họ, mà còn chia sẻ những trải nghiệm của mình với họ, ông trở thành một phần trong đời sống của các nhân vật. Chính điều này đã tạo nên nét độc đáo, tiêu biểu, đặc trưng trong tác phẩm của Huỳnh Phương Đông, độc đáo đến mức kỳ lạ”.

Còn với họa sĩ Vũ Giáng Hương: “Huỳnh Phương Đông có bút pháp phóng khoáng, tranh của ông mang màu sắc trong sáng, trong cảnh tàn phá vẫn có những mảng trời xanh thân yêu của đất nước - màu của niềm tin và hy vọng. Tình cảm với quê hương, lòng quyết tâm chiến đấu, khả năng diễn đạt của ông đã tạo nên những tác phẩm hội họa có giá trị nghệ thuật”.


 

Gặp bất cứ ai, họa sĩ Huỳnh Phương Đông cũng giở đồ nghề ra ký họa.

Ký họa là tài liệu quý

Trước đây có người cho rằng ký họa không phải là tác phẩm. Họa sĩ Huỳnh Phương Đông suy nghĩ nhiều mà không nói ra và cứ lao động miệt mài vượt lên tạo tác phẩm từ kho tư liệu quý giá đó. “Tôi đã theo con đường đứng lên cầm súng khi đất nước lâm nguy. Và tôi đã chọn con đường hiện thực trong nghề nghiệp để phục vụ nhân dân, phục vụ sự nghiệp cách mạng”, ông tâm niệm.

Quan sát tinh tế và liên tục sáng tạo là nhu cầu của Huỳnh Phương Đông. Những năm 1940, ở tuổi 15, khi theo học trường Mỹ thuật thực hành, ông đã nảy ra ý định chế tạo bút vẽ vì hồi đó rất khó kiếm một cây cọ tốt ở Sài Gòn. Quan sát những chiếc bàn chải bán tại khu người Hoa trong Chợ Lớn, ông phát hiện chúng được làm từ lông heo. Xin được lông heo từ mấy nhà buôn, ông ngồi nhà mày mò làm bút vẽ. Thử nghiệm nhiều kiểu dáng khác nhau, cuối cùng ông chế tạo được loại bút vẽ dùng nhiều lần mà vẫn không bị tòe. Ông cùng người bạn đồng môn Hồ Tấn Thuận sản xuất bút vẽ đem bán, nguyên liệu là lông heo, vỏ hộp sữa dùng làm đế bút. Mài giũa và đánh bóng một chút, những cây cọ hoàn chỉnh được bày bán tại một cửa hàng của người Pháp có tên là Albert Portail, đối diện khách sạn Continental. Đây chính là nguồn thu nhập thường xuyên của chàng sinh viên mỹ thuật có đầu óc kinh doanh.

Ông không chỉ vẽ khá nhanh các chân dung mà còn thể hiện được tính cách của người mẫu, chỉ cần phác qua vài nét đã rõ người trong tranh là ai. Và Huỳnh Phương Đông luôn say mê ký họa chân dung bất cứ khi nào có dịp. Họa sĩ Lê Thanh Trừ kể: “Có lần đi dự một liên hoan cuối năm, khi bàn tiệc đã dọn ra, ông vẫn mê mải ký họa cho đồng nghiệp bức chân dung kỷ niệm. Nhiều người vây quanh trầm trồ. Ba Đông chợt nhận ra một người bạn cũ.

- À, anh Sáu hả? Đợi chút nhen. Tôi sẽ kỷ niệm anh một bức…

Chân dung người bạn cũ vừa vẽ xong chưa kịp ký tên đã có người khác ngồi thay chỗ.

- Đợi đấy, đợi đấy.

Rồi lại người nữa, người nữa… Huỳnh Phương Đông vẽ tặng không biết mệt. Khi xong bức cuối cùng mới hay những người dự tiệc đã dần dần đứng lên bắt tay nhau từ giã”.

Lần gần nhất ông chuyển nhà phải chở 11 chuyến xe tải mới hết tranh, tượng! Riêng chân dung đã 3.500 bức... Căn nhà ông gần 250m2 diện tích sử dụng nhưng dường như quá nhỏ bé, chật hẹp khi phải chứa đựng một khối lượng tranh đồ sộ. Con gái ông là Huỳnh Phương Lan, người cũng được cha truyền tình yêu hội họa và trở thành họa sĩ, tâm sự: “Tôi rất khâm phục tinh thần lạc quan và sức làm việc mạnh mẽ, liên tục của ông. Ký ức qua hai cuộc chiến tranh không làm tâm hồn của ba tôi bị khô khan. Cuộc sống trong hòa bình vẫn đang từng ngày thay đổi và ba tôi vẽ mọi người trong gia đình, vẽ bè bạn trong các cuộc họp mặt, vẽ hoa lá, vẽ phong cảnh… Ai một lần đến thăm ba tôi tại nhà riêng đều ra về trong luyến tiếc vì không có đủ thời gian để xem hết kho tàng tranh của ba tôi”.

“Tôi chưa vẽ hết những thành tựu mới về xây dựng đất nước, thành phố ta đã đàng hoàng hơn, to đẹp hơn rất nhiều. Quá sức tưởng tượng của tôi. Tôi còn mong sẽ trực tiếp vẽ được cảnh đồng bào, chiến sĩ ngày đêm canh giữ biển trời, biên cương của Tổ quốc”. Và để “chuộc lỗi”, ngày nào ông cũng vẽ đến nửa đêm.

Ông David Thomas, họa sĩ người Mỹ, tác giả cuốn sách Huỳnh Phương Đông - góc nhìn chiến tranh và hòa bình (Visions of War and Peace) tâm sự: “Năm 1987, lần đầu tiên tôi trở lại Việt Nam. Tôi gặp họa sĩ Huỳnh Phương Đông tại TPHCM. Tôi đã thật sự say mê những bức tranh của ông. Những bức ký họa chiến tranh của ông mang “sức nóng” của một người trong cuộc và được “khúc xạ” dưới con mắt lãng mạn của một người nghệ sĩ tài ba. Từ tận đáy lòng, tôi vẫn tự hào coi mình là người hiểu tranh của Huỳnh Phương Đông. Tôi có nhiều mối giao tình với ông. Dù không nói ra nhưng tôi vẫn coi ông như cha mình từ lâu rồi. Ông là đại diện của nền hội họa Việt Nam trong hơn nửa thế kỷ. Ông Đông là kho báu của Việt Nam”.

Huỳnh Phương Đông - góc nhìn chiến tranh và hòa bình (Visions of War and Peace)” khổ 33,6cm x 24,4cm, 177 trang được Nhà xuất bản Văn hóa Sài Gòn và Tổ chức công tác nghệ thuật Đông Dương tại Mỹ hợp tác xuất bản vào năm 2006, do tài trợ của Quỹ Mauna Kea, một tổ chức phi chính phủ, phi lợi nhuận của cựu binh Mỹ. 1.000 cuốn được phát hành tại Mỹ, 1.000 cuốn phát hành tại Việt Nam. Cuốn sách giới thiệu 109 bức tranh của họa sĩ Huỳnh Phương Đông. Cấu trúc 75% ký họa chiến trường, 25% tranh nghệ thuật, cuốn sách dày 177 trang, với 109 bức tranh, ngoài ra còn có nhiều bài viết, bài bình luận của những nhà phê bình, nghiên cứu nghệ thuật của Mỹ. Tư tưởng xuyên suốt chủ đề của cuốn sách này chính là thông điệp về hòa bình. Dùng những hình ảnh chiến tranh để nói về hòa bình. Cuốn sách được giới nghệ thuật của Mỹ đánh giá cao về giá trị nghệ thuật cũng như nội dung tư tưởng.

Nguồn: ĐỖ QUANG TUẤN HOÀNG - SGGP

 

 


 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • BẠCH DIỆP

    "Có lẽ đau khổ lại tốt cho con người. Nhà nghệ sĩ có thể làm gì nếu anh ta hạnh phúc? Anh ta liệu có muốn làm bất cứ điều gì không? Nghệ thuật, rốt cuộc chính là chống lại sự khắc nghiệt của cuộc đời".

  • ĐINH CƯỜNG

    Kỷ niệm 100 năm ngày sinh của họa sĩ Nguyễn Phan Chánh

     

  • PHAN THANH BÌNH

    Trong lịch sử mỹ thuật thế giới, từ Âu châu đến Á châu đã ghi nhận nhiều hoàng đế từng cầm bút vẽ, nặn tượng và không ít bảo tàng mỹ thuật ở các quốc gia có lưu giữ những tác phẩm mỹ thuật mà tác giả là những vị vua danh tiếng.

  • KHẢ HÂN

    Là một trong những họa sĩ chủ soái của trường phái Ấn tượng nổi tiếng với phong cách làm việc ngoài trời một cách nhất quán, Monet đã để lại rất nhiều bức vẽ đầy ấn tượng về băng, tuyết và sương giá.

  • LINH PHƯƠNG

    Một lần nữa có thể thấy rằng, mỹ thuật Huế trong dòng chảy của mình, không ồn ào mà lại âm thầm trong việc theo đuổi những tiếng gọi nghệ thuật thuộc nhiều kiểu dạng ngôn ngữ nghệ thuật khác nhau để có được hiệu quả thẩm mỹ tốt nhất.

  • PHƯỢNG LÂM

    Họa sĩ Léopold Franckowiak, đến nay ông đã có bảy năm sống ở Việt Nam. Có thể nói, Việt Nam là nơi gợi cảm hứng sáng tác mạnh mẽ nhất với ông trong thời điểm này.

  • TRẦN DUY MINH

    Trong hội họa, mùa thu là mùa quyến rũ với các họa sĩ, bởi mùa thu là mùa của thi tính, của cái đẹp và cũng là mùa của nỗi buồn. Mùa thu là mùa của sự úa tàn, của những phôi pha, của những gì kết thúc nhưng đó cũng là thời điểm để khởi đầu cho một hành trình mới của sự vật.

  • LÝ HỮU NGUYÊN

    Nguyễn Trọng Khôi là họa sĩ song hành cả hiện thực và trừu tượng.

  • VŨ LINH

    Từ khởi thủy của nghệ thuật tạo hình, động vật đã là một đề tài được lựa chọn. Những hình vẽ sơ khai nhất được tìm thấy trong các hang động, những hình thù khắc trên đá, trên xương động vật, trên các dụng cụ bằng đồng...

  • TRẦN DIỄM THY

    Trong nghệ thuật tạo hình trên thế giới cũng như ở Việt Nam, hình tượng trẻ con luôn được xem như là một nguồn mạch của sáng tạo nghệ thuật.

  • LÊ TRIỀU HẢI

    Nếu như nghệ thuật hiện đại có những cách thức đi ngược chiều với quan niệm nghệ thuật là sự mô phỏng của Plato và Aristotle, thì ngày nay, trào lưu nghệ thuật cực thực lại hướng tới mô phỏng ngoại giới một cách tinh vi, nếu không muốn nói là đẩy tới cực đoan nhất có thể trong việc mô phỏng vật thể.

  • NGUYỄN THỊ HÒA

    Huế những năm đầu thế kỷ XX, Nhà nước phong kiến triều Nguyễn đã ban hành nhiều chính sách, trong đó có chính sách văn hóa hướng tới nhiều khía cạnh của đời sống xã hội như văn chương nghệ thuật, giáo dục, giao lưu, tiếp xúc văn hóa, bảo tồn di sản… nhằm đáp ứng nhu cầu văn hóa nghệ thuật của cộng đồng, với sự xuất hiện trào lưu học thuật tân tiến của châu Âu, mỹ thuật được giao lưu biểu hiện qua các hoạt động và sáng tác nghệ thuật.

  • ĐẶNG TRIỆU VĂN

    Như tên gọi của nó, trào lưu tối giản trong nghệ thuật hướng tới tiết chế mọi yếu tố cấu nên tác phẩm nghệ thuật.

  • NGUYỄN HOÀNG VY

    Từ khi Phân tâm học của Freud ra đời, người ta mới có thể lý giải được phần nào nguyên do xui khiến người nghệ sĩ lao vào sáng tạo nghệ thuật, có một sức mạnh to lớn từ vô thức khiến người nghệ sĩ mộng mơ, đó là sức mạnh bất khả từ chối.

  • VŨ LINH

    Với hội họa Việt Nam, sơn mài là chất liệu không xa lạ. Những tên tuổi lớn từng thành công trên chất liệu sơn mài phải kể đến như: Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Sáng, Nguyễn Đỗ Cung, Phan Kế An, Nguyễn Tư Nghiêm...

  • TRÚC LÂM

    Trong văn hóa nhân loại, lợn như là một biểu tượng phổ quát. Lợn được xem là tổ phụ sáng lập một trong bốn đẳng cấp trong xã hội Meslanesie. Nữ thần trời và mẹ vĩnh cửu của các tinh tú ở Ai Cập cổ đại lại thường được tạo hình trên các bùa đeo với những họa tiết của lợn nái đang cho đàn con bú.

  • VŨ PHƯƠNG

    Trong dòng nghệ thuật biểu ý, dựa trên ngôn ngữ biểu hiện ở Huế, thì Trương Thế Linh nổi lên như một hiện tượng tiêu biểu.

  • KHẢ HÂN

    Francesco Clemente sinh năm 1952, ở Naples, Italy. Ông xuất hiện vào thời điểm khi mà Thế chiến II vẫn còn là một ký ức dai dẳng khắc sâu thành những vết nứt trong tâm thức sáng tạo của cộng đồng nghệ sĩ ở dải đất ven vùng biển Địa Trung Hải này.

  • TRẦN PHƯƠNG ĐÔNG

    Lê Kinh Tài là một trong những nghệ sĩ đương đại rất thành công ở Việt Nam hiện nay. Sự thành công được minh chứng không chỉ ở số lượng tác phẩm lớn, những tìm tòi nghệ thuật không mệt mỏi mà cả ở giá tranh của ông trên thị trường quốc tế.