Viên thuốc bọc đường

14:13 04/03/2011
A-ri-en Đot-phơ-man sinh năm 1942 tại Chi-lê. Giáo sư dạy thuyết giảng tại Đại học Văn thuộc Viện Đại học Chi-lê, ông phải rời bỏ Chi-lê vào năm 1973, viết truyện ngắn, tiểu luận và thơ.Truyện ngắn Viên thuốc bọc đường viết theo kỹ thuật chen lồng đối thoại và chen lồng hiện tại và tương lai.Nội dung truyện vạch trần sự vật lộn miếng ăn tại Hoa Kỳ khiến cho lắm kẻ tha phương lao vào một số nghề nghiệp nguy hiểm, khốn nạn.

Minh họa: Bửu Chỉ


“Có phải là bà Pê-rê không ạ?”

Bà cụ sẽ mở to mắt, nhìn cậu một cách ngơ ngác, nhưng không ác cảm. Nghĩa là không nghi ngại gì đâu.

“Ông là ai? Ông cần gì?

- Tôi là bạn của Pê-đrô con bà. Anh nhờ tôi đến đây.


Này cậu Đa-ni-en, khoan nói với bà cụ là cậu sẵn tiền tàu xe. Bà cụ sẽ mở cửa như thể chính tôi hồi hương vậy. Rồi cậu xem.

“Pê-đrô nhờ ông? Lạy chúa! Không ngờ. Kìa mời ông vào, mời ông, không khéo cảm lạnh. May mắn cho tôi! Không ngờ!

Cậu hãy tỏ ra con người phong độ. Bà là mẹ tôi, cậu đừng quên, và nhất là đừng có hố! Cậu cứ ngồi xuống mép ghế và bằng lòng với nước chè. Đừng có đòi rượu mạnh hay rượu ngọt làm gì.

“Thế Pê-đrô nó thế nào, thưa ông? Là vì rằng cái thằng quỷ, ấy xin lỗi ông, nó không hề thư từ. Nó lành hạng nhất đấy! Ông đừng nghĩ là tôi buồn nó. Từ miền Căng-dát, nó gửi tiền đều đặn về cho tôi. Ông cũng từ đó mà về đây có phải không?

- Vâng ạ. Chúng con làm việc với nhau.

- Hai người làm việc với nhau? Thế thì hay quá! Như thế là đồng nghiệp, nhỉ?”


Đa-ni-en ạ, tôi chưa hề kể câu chuyện này ra với mẹ tôi. Giống như cậu, cậu chẳng muốn cho Ét-tơ-la biết đầu đuôi trước khi cô nàng đến đây. Tôi cứ sợ cô ta không hiểu mà hoảng hốt. Nhưng bây giờ thì tôi không lùi được nữa rồi. Tôi cưới vợ mà không có mặt bà thì bà không chịu đâu. Cậu nghĩ coi, con một của bà mà lại. Tôi cũng không muốn bà sang tới đây mà đổ ốm theo chuyện này. Tôi đã thân hành đón Ét-tơ-la ở phi trường, cậu nhớ chứ? Vợ của cậu mà, tôi đã bảo là cậu phải tự mình nói ra cho Ét biết. Mà cậu lại bảo: “Nói hộ với Ét là tôi bệnh”, cậu bệnh thật, rồi cậu bảo: “Pê-đrô hãy nói hết cho Ét rõ trên đường từ phi trường về nhà”. Tôi làm theo, cậu không thể phủ nhận. Bây giờ đến lượt cậu, Đa-ni-en à.

“Còn hơn là đồng nghiệp nữa đấy.

Nhưng để cuối cùng hẵng hay, nhé? Đừng vọt miệng ngay. Đầu tiên là chuyện lấy vợ, kế là vé máy bay và cuối cùng mới là chuyện làm ăn.

“Thế Pê-đrô nó thế nào?

- Chính con về báo nhiều tin vui cho bác ạ.

Tôi chẳng rõ rồi bà cụ có vui cho không. Bà không ngớt bảo tôi: “Tính cho rồi”, và “Hồi nào mới có cháu?”,“Cậu thế nào mà chẳng quyết đi”. Nhưng cũng có thể bà cụ nổi cơn đố kỵ cũng nên. Thôi thì đối với chuyện về Ê-li-a-na, cậu cứ nói đầu đuôi. Chắc là không khó đối với cậu, nhỉ.

“Tin vui gì thế?

- Pê-đrô sắp lấy vợ, bác ạ.

Cần nhất là cậu đừng hở môi gì về chuyện giữa Ê-li-a-na với cậu trước khi Ét-tơ-la xuất hiện. Mẹ tôi là người rất cổ, cậu ạ. Bằng không bà chẳng hiểu đâu, tôi chắc thế. Tôi không muốn bà cụ hiểu nhầm về Ê-li-a-na. Cậu nên nói bác sĩ Tom-xơn sẽ tham dự lễ cưới. Phải đấy. Để cho bà thấy là đình đám.

- Pê-đrô lấy vợ ư?

- Vâng ạ.

- Lẽ ra nó cho tôi biết trước chứ. Ông nghĩ coi! Lẽ ra nói trước cho tôi chứ.

- Giáp ngày con lên đường thì mới biết ạ.

- Thế cơ à! Lạy Chúa. Nhưng tôi có nói sao đâu. Vui quá mà. Này ông, ông có biết vợ nay mai của nó không?

- Có chứ ạ, cô làm việc với chúng con, cùng một nơi ạ”.


Bà cụ sẽ đứng lên, hôn cậu, ôm lấy cậu như thế là ôm chính tôi. Đừng nói. Để cho bà cụ xúc cảm, khổ thân. Cậu nói với bà rằng là chúng nó say sưa yêu nhau, chúng nó hạnh phúc, rằng là không có bạn lứa thì có chết với công việc thôi, v.v…

“Cậu bỏ lỗi, tôi có hơi… cậu hiểu cho, đột ngột quá. Ta nghĩ con cái cứ y như là hồi mới sinh. Vô phương tự vệ. Và đùng một cái là thời điểm. Bao giờ cũng bất ngờ. Thế chừng nào đám cưới?

- Vâng ạ. Con về đây là vì thế. Anh ấy nhờ con chuyển tiền vé máy bay cho bác. Anh chị đều mong muốn bác đi sang bên ấy.

- Đi Căng-dát?

- Vâng ạ, để dự đám cưới”.


Cậu hãy nhẹ tay đưa phong bì cho bà cụ. Đừng yêu cầu bà đếm tiền lại trước mặt cậu. Tôi biết cậu thích sòng phẳng, cái gì đâu ra đó. Nhưng bà lấy thế làm ngượng. Cứ đưa phong bì rồi bảo là để mua vé, thế thôi.

“Tôi chẳng biết nói sao. Chính tôi cũng có để ra ít tiền sang năm thì đi. Nhưng dĩ nhiên chẳng là bao.

Đấy, thế là êm, và bà cụ sẽ hiểu được. Hoặc giả bà sẽ hỏi gì đó liên quan tới cha cố, hay là hỏi xem ở Căng-dát người ta có đạo không. Nói với bà là đừng lo.

“Anh ấy mong muốn bác có mặt trong ngày lễ.

- Hôm nào đấy, anh có biết hôm nào?


Cậu đừng đi vào chi tiết. Bác sĩ Tom-xơn bảo phải đợi kỳ kinh nguyệt tới đây. Thế thì cậu tránh nói chi tiết được chừng nào tốt chừng ấy.

“Tháng tới đây thì phải, nhưng con không rõ đích xác. Bác bỏ lỗi cho.

- Không dám, không dám, tôi phải xin lỗi chứ. Nói chuyện dễ có đến mươi phút mà chẳng mời cậu một cái gì. Cậu dùng gì chứ?

- Vâng, bác cho cháu tách chè vậy. Cám ơn bác.

- Có ngay. Hãy khoan, cô dâu trông thế nào, ông nhỉ?

- Thưa tên là Ê-li-a-này. Đẹp, trầm tính, thông minh. Nói gì nữa bấy giờ?

- Tính có tốt không. Có cảm thông, nhẫn nại không?

- Tính tốt lắm, thưa bác. Bác khỏi lo.

- Ông có vợ rồi chứ?

- Có rồi ạ.

- Ông hẳn biết việc chọn lựa nó quan trọng như thế nào. Ông thấy con tôi chọn lựa có được không?

- Bác chớ lo, anh ấy rất khéo chọn.

- Ranh con chẳng lời lẽ gì với tôi.


Bà cụ sẽ xuống bếp pha chè. Trở lên, một lúc nào đó thế nào cũng hỏi cậu một câu giúp cậu đề cập vấn đề.

“Họ trả lương khá chứ, thưa ông? Ông quý danh thế nào ạ?

- To-rơ, thưa Đa-ni-en To-rơ. Bác gọi con Đa-ni-en là xong.

- Hồi nào tôi vẫn gọi bạn bè của con bằng tên riêng. Thêm tí đường, Đa-ni-en?

- Thưa không ạ. Con không dùng đến.

- Không đường vậy. Coi nào, anh bảo là lương tiền khá. Ít ra, mặt ấy cũng là yên cho Pê-đrô. Nó là đứa có tài. Phải một cái nó không gặp may thôi. Thật quả là cả một thời gian không tìm được việc làm.

- Cũng khó kiếm việc ở bên ấy. Không có giấy tờ thì lại còn khó hơn.

- Nhưng Pê-đrô nó hợp lệ kia mà. Nó viết bảo tôi mà. Nó đã được giấy cư trú.

- Vâng, cũng lo xong. May. May cho Pê-đrô kiếm được việc hiện nay. Giải quyết lắm chuyện, bác ạ.

- Ở đây cũng chẳng dễ gì, nhưng bên ấy thì cứ ngỡ là dễ thở hơn. Lúc mới đầu, xem ra có vẻ vất vả. Thư từ nó chẳng đả động gì, nhưng tôi biết. Nó không thích đem chuyện mình ra nói. Hồi đi học, các thầy cứ bảo tính nó dè dặt. Đến công ăn việc làm của nó, tôi chẳng biết. Tôi biết là ở tại Căng-dát, thế thôi
”.

Cậu đừng có thuật lại một hơi. Thong thả, cứ thong thả.


“Thưa đây như thế là một phòng thí nghiệm.

- Phòng thí nghiệm! Pê-đrô làm việc trong một phòng thí nghiệm! Ngộ nhỉ! Nó giỏi mà!


Cậu biết, bà cụ chỉ thích các bà bạn láng giềng, ông cha xứ suốt ngày kể chuyện tôi. Tôi là đề tài ăn ý nhất của bà.

“Nói là phòng thí nghiệm nhưng đó chỉ là một thứ trung tâm thử nghiệm, bác hiểu chứ, một nơi người ta đem ra thử các thứ thuốc, ma túy, trước khi đem ra bán rộng rãi, bác thấy chưa… người ta khảo sát… chích thử…

- Phải, phải, rađiô thường hay nói. Chích cái gì đó vào con chuột, rồi sau đó quan sát xem
.

Nếu như bà cụ nói tới chuột, thì cậu giải thích cho bà nghe khác nhau thế nào. Ét-tơ-la đã từng bán tín bán nghi. Mặt mày trắng dã. Ét có hỏi tôi xem có nguy hiểm không. Tôi phì cười. Để tỏ rõ rằng là công việc nào cũng thế thôi.

“Đúng là chuột, thưa bác. Bao giờ khảo sát một liều thuốc nơi chuột, không thấy hiệu nghiệm gì với chuột và họ hàng chuột, thì người ta biết là có thể khởi công chích vào con người ta.

- Tội tình nhà chuột. Tôi thì cứ nhát chuột. Nhưng cần phải thế thôi, nhỉ? Vì nhân loại mà. Thế Pê-đrô nó làm cái gì? Nó chăn giữ mấy con thú à? Nó vẫn từng yêu loài vật.

- Bác thấy không, ở Hoa Kỳ đạo luật chỉ thị rằng một dược phẩm không được phép đem ra bán nếu như trước đó chưa được thử nghiệm vào một cá thể người. Người đây có nghĩa là người bình thường.

- Thế thì tốt quá còn gì! Phải chi khắp nơi trong nước người ta tôn trọng đồng loại được như thế. Có như vậy mới khỏi chích thuốc cho người ta sau đó. Anh biết, tôi thì chẳng thích gì thuốc men. Tôi không tin. Cứ nuốt hết thuốc này đến thuốc kia, tôi thấy chẳng ra làm sao cả. Hết đau cổ đến đau đầu, rồi thuốc ngủ, thêm cả thuốc khỏi đẻ nữa chứ. Bỏ lỗi cho tôi chứ như thế là làm ăn trên cái sợ của những người khác. Thế còn gì
.

Cậu hãy tìm cách trình bày sự việc thế nào cho thật tự nhiên. Đừng có gây lo cho bà cụ.

“Khởi đầu, họ dùng tù binh. Bác rõ chứ, tù binh trong các trại giam. Chích thử thuốc vào các tù binh trước khi đưa thuốc ra bán.

- Chích vào tù binh?

- Phải, vì rằng, theo các vị bác sĩ và các nhà nghiên cứu thì tù binh sống trong những điều kiện tối ưu. Ăn uống giống nhau, điều kiện giống nhau về sinh sống về khí trời, về giải trí. Người ta an nhiên mà nghiên cứu bọn họ.

- Nhưng có khác nào bắt họ hứng chịu hàng loạt nguy cơ! Dễ họ là những kẻ đã giết người, thôi thì cho họ suy ngẫm dăm ba phút về những điều đã gây ra, nhưng dẫu sao…

Thì chính báo chí Mỹ cũng bảo thế. Tù binh bằng lòng chịu, được lắm tiền, nhưng bây giờ thì qua rồi. Thế là kêu gọi đến những ai tự nguyện, những người suốt ngày chỉ mỗi việc là ngốn thuốc, thử nghiệm dược phẩm. Người ta cầm giữ loại người này dăm tháng trong phòng. Họ được ở riêng, và như thế người ta có thể đoán đúng tác dụng của thuốc đối với con người ta.

- Nguy hiểm ngặt nghèo đối với ai đó tự nguyện nhỉ
”.

Thống kê cậu ạ. Dẫn chứng mấy con số thống kê ra. Không có nguy hiểm. Còn bảo đảm hơn cả làm tài xế cam nhông hay hơn cả thư ký nữa là khác. Cậu cứ kể ra những tai nạn lao động mà một cô làm thư ký biết đâu gặp phải. Ét-tơ-la có lần không tin, nhưng khi thấy con số thống kê rồi thì bắt đầu thay đổi ý kiến. Đàn bà họ tin con số.

“Bác biết cho, nó chẳng nguy hiểm gì hơn một việc làm nào khác ạ”

Cậu hãy kể cho bà cụ hay rằng vào đầu người ta miêu tả đủ mọi thứ cho mình rõ, rằng chẳng bao giờ hề hấn gì. Rằng mình được chăm nom cẩn thận.

“Anh Đa-ni-en ạ, cho phép tôi nói với anh giống như anh là con tôi vậy. Bởi vì, ngay cả có vợ có con… Anh có con chưa?

- Chưa, thưa bác, chưa ạ.

- Chớ để thời gian trôi đi, anh ạ. Chuyện con cái, mình phải lợi dụng lúc hãy còn trẻ. Tôi nói cái gì nhỉ? Á, phải rồi, chuyện sức khỏe. Là cái duy nhất của ta nhận từ Chúa. Nó thiêng liêng và ta phải gìn giữ đúng theo giá trị của nó. Tôi, cái sức khỏe quí báu của tôi, tôi đã truyền cho Pê-đrô. Nó không hề cảm mạo. Còn, như những ai đó tự nguyện thì nhất thiết là ngặt nghèo.

- Họ ký hợp đồng, thưa bác. Chuyện thiêng liêng ạ. Luật lệ nó thế. Người ta giải thích cho họ rõ họ có thể có loại triệu chứng như thế nào, loại thí nghiệm nào thi hành với họ.

- Cái thằng Pê-đrô! Nó không muốn cho tôi hay là phải. Nhưng bây giờ tôi hiểu hết. Nó thừa hiểu tôi không ưa gì những thứ rọi điện, kem xoa, thuốc men. Tôi sợ. Chăm sóc bọn người tội nghiệp được cầm giữ riêng như thế thì quả là nản thật. Xin lỗi, tôi quên là các anh làm cùng một công việc. Mà công việc nào cũng thế thôi. Và lương tiền hậu lắm, phải không? Anh đừng nói lại với nó lời tôi mới nói ra với anh. Với cô dâu lại càng không nên nói. Hứa với tôi, nhé?

- Con xin hứa, thưa bác”
.

Đến đây, cậu hít lấy hơi. Đa-ni-en ạ, rồi tuôn sự thật ra với bà cụ. Tránh cho tôi cái công việc ấy bạn ạ. Đừng nói chi tiết. Đừng nói gì đến triệu chứng. Đừng tiết lộ gì về cơn đau, nôn thốc, về những đêm đánh bạc cho qua. Mấy cái ấy thì đừng. Lại càng không nên nói về chuyện đàn bà, thuốc ngừa thai và các thứ. Tuyệt đối, cậu nghe chứ? Như thể chẳng quan trọng gì, như lời giải thích của bác sĩ Tom-xơn, việc vàn nào cũng thế thôi.

“Thế cậu cũng chăm sóc đám người tội nghiệp kia, hả Đa-ni-en?

- Thưa bác… vâng. Con cũng… cũng chăm sóc họ. Như Pê-đrô vậy”
.

A-RI-EN ĐOT-PHƠ-MAN
Bửu Ý dịch
(12/4-85)






Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • SINCLAIR LEWISLGT: SINCLAIR LEWIS (1885 - 1951, giải thưởng Nobel 1930)Ông là tiểu thuyết gia, người viết truyện ngắn có tiếng và nhà viết phê bình có uy tín ở Mỹ.

  • BRUNO LESSINGLGT: Bruno Lessing (1870-1940) sinh tại New York, Mỹ. Tên thật của ông là Rudolp Block nhưng ông nổi tiếng với tư cách là nhà văn chuyên viết truyện ngắn dưới bút danh Bruno Lessing. Ông là phóng viên và sau đó là biên tập viên cho nhiều tờ báo. Mô tả của Lessing về cuộc sống của người Do Thái ở New York được đánh giá cao. Truyện dưới đây được dẫn dắt một cách hấp dẫn, lý thú, làm nổi bật mối quan hệ giữa hai thế hệ: cha và con, vấn đề nhập cư, đồng hóa hay giữ bản sắc văn hóa với một giọng điệu dí dỏm.

  • JUAN JOSÉ ARREOLA (Sinh 1918, Nhà văn Mêhicô)LGT: Arreola là một nhà cách tân lớn về truyện kể. Là một người tự học tài năng, ông sở đắc một nền văn hoá rộng lớn, cũng như trải qua nhiều nghề khác nhau để kiếm sống. Arreola chủ yếu sáng tác những truyện kể ngắn, cô đúc, mỉa mai, hay bí ẩn, ưa thích cái nghịch lý và ông là một trong những bậc thầy của hình thức truyện ngắn này. Ba tuyển tập truyện ngắn của ông là Varia Invencion (1049), Confabulario (1952), Confabulario Définitivo (1087).

  • KAWABATA YASUNARI LGT: KAWABATA YASUNARI (1899 - 1972) là nhà văn đầu tiên của Nhật Bản đoạt giải thưởng Nobel văn chương (1968). Ông nổi tiếng thế giới với những tiểu thuyết như: Xứ Tuyết (1935 - 1947), Ngàn cánh hạc (1949), Tiếng rền của núi (1950), Người đẹp say ngủ (1961), Cố đô (1962)...

  • MATVEEVA ANNALGT: MATVEEVA ANNA (Sinh 1975) là một nhà văn nữ trẻ của văn học Nga đương đại tài năng đầy hứa hẹn. Đã xuất bản một số tập truyện ngắn. Truyện ngắn của cô đã được đăng trong các tạp chí lớn của Nga như Thế giới mới, Tháng Mười. Văn xuôi của cô hóm hỉnh, thể hiện sự tò mò sắc sảo trước cuộc sống và con người. Tác phẩm của cô được xem như thể hiện một số sắc thái và đặc điểm của văn xuôi hậu hiện đại Nga hiện nay. Xin trân trọng giới thiệu truyện ngắn “Con chó” dưới đây của nữ văn sĩ qua bản dịch của nữ dịch giả Đào Tuấn Ảnh.

  • YVELINE FÉRAYLTS: Monsieur le paresseux là cuốn tiểu thuyết lịch sử dày gần 300 trang của nữ văn sỹ Pháp Yveline Féray viết về Đại danh y Việt Nam Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, do Nhà xuất bản Robert Laffont ở Paris ấn hành năm 2000. Trước đó, năm 1989 nữ văn sỹ này đã cho xuất bản ở Pháp cuốn tiểu thuyết dày 1000 trang Dix mille printemps, viết về Nguyễn Trãi - nhà chính trị, quân sự lỗi lạc; nhà thơ lớn của Việt Nam ở thế kỷ XV.

  • MARSEL SALIMOV (LB NGA)Đất nước ta quá giàu! Vì thế tôi nảy ra ý định muốn cuỗm một thứ gì đó. Những tên kẻ cắp ngày nay chả giống như trước đây. Chúng không thèm để mắt đến những thứ lặt vặt. Cả một đoàn tàu bỗng dưng biến mất tăm! Những nhà máy không thể di dời được, thế nhưng người ta lại nghĩ ra kế chiếm đoạt chúng. Nghe đồn nay mai người ta sẽ bắt đầu chia chác cả đất lẫn nước!

  • AKILE CAMPANILE(Nhà văn Italia)LTS: Số Tết này, TCSH chọn một truyện ngắn hài hước của một nhà văn Ý, có nhan đề “Ngón nghề kinh doanh”, qua bản dịch của dịch giả nổi tiếng Lê Sơn, để bạn đọc có dịp thư giãn trong dịp đầu Xuân.

  • HERMANN HESSE Tương truyền thi nhân người Tàu tên Han Fook thuở thiếu thời chỉ thao thức với một khát khao kỳ diệu là muốn học hết mọi điều và tự rèn luyện mình đến hoàn hảo trong tất cả các môn liên quan đến nghệ thuật thi ca.

  • OLGA TOKARCZUK (Nữ nhà văn Ba Lan)LGT: Nữ văn sĩ Ba Lan Olga Tokarczuk sinh năm 1962 tại Sulechow, Ba Lan. Bà là nhà văn “hậu hiện đại” và “nữ quyền”. Năm 1979  những truyện ngắn đầu tay của bà được đăng tải trên Tạp chí Thanh niên, năm 1989 những bài thơ đầu tay được in trong các tạp chí “Rađa” và “Đời sống văn học”.

  • NADINE GORDIMER ( Phi), Giải Nobel 1991LGT: Nữ văn sĩ Nadine Gordimer sinh năm 1923 tại Phi. Bà cho in truyện ngắn đầu tay năm 15 tuổi và tiếp tục nghề văn khi còn là sinh viên Đại học Wirwatersrand. Có thời kỳ sách của bà bị chế độ phân biệt chủng tộc Phi cấm đoán. N.Gordimer được trao tặng nhiều giải thưởng văn học, trong đó có giải Nobel văn chương năm 1991.

  • OLGA TOKARCZUKLGT: Trong số tháng 3 – 2007 (217), Sông Hương đã giới thiệu tới bạn đọc truyện ngắn “Người đàn bà xấu nhất hành tinh” của OLGA TOKARCZUK, một nữ văn sĩ thuộc dòng văn học nữ “hậu hiện đại Ba Lan”. Số báo này, Sông Hương xin giới thiệu tiếp truyện ngắn “Vũ nữ”. Đây là một truyện ngắn độc đáo dựa trên một leimotic “cuộc đối thoại vô hình” giữa người con gái và người cha, láy đi láy lại đến 6 lần, thể hiện cuộc chiến đấu âm thầm dữ dội, tự khẳng định mình trong nghệ thuật, chống lại sức mạnh ám ảnh của mặc cảm “bất tài”.

  • BERNARD MALAMUDLGT: Bernard Malamud sinh năm 1914 tại Brooklyn, New York, lớn lên trong thời kỳ Đại Khủng hoảng Kinh tế, là người Nga gốc Do Thái trong một gia đình bán tạp hoá. Ông đã xuất bản nhiều tiểu thuyết, truyện ngắn và được nhận nhiều giải thưởng văn học.

  • RADOI RALIN (Bungari)LGT: Đây là một truyện có ý vị sâu xa với các môtíp sự cám dỗ của quyền lực, “sự đồng loã ngây thơ” với tội ác, sự tự nhận thức và tự trừng phạt. Nhưng trên hết là sự vạch trần và tố cáo sự bịp bợm quỷ kế của giới quyền lực. Đây là một truyện ngụ ngôn mới đặc sắc. Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc.

  • ZACE HAMMERTON (Anh quốc)LGT: Truyện dựng chân dung của một kẻ “Sính khiếu nại” “một cách hài hước, bố của John Peters có “Thú đam mê sưu tập tem”. Cách dẫn chuyện tài tình ở cái chi tiết sự ham mê của anh với một loại tem đặc biệt không đục lỗ chiếu ứng với cái kết bất ngờ của truyện “Có của rơi vào tay mà để vuột mất”. Mời bạn đọc thưởng thức.

  • TOIVO TOOTSEN ( )LGT: Đây là một truyện hài hước thú vị về nạn kẹt xe. Tác giả đã sử dụng một thủ pháp phóng đại đến mức vô lý, không tưởng: một vụ kẹt xe bất tận từ đám cưới đến sinh con, ly dị, tái kết hôn, con vào đại học và kết hôn mà cuộc kẹt xe vẫn chưa kết thúc!. Mượn một tình huống kẹt xe “hoang tưởng” này, nhà văn muốn gởi tới một thông điệp hài hước một cách bi đát: nếu giao thông ở các đô thị lớn không ở các đô thị lớn không được tổ chức một cách khoa học thì từ đời cha đến đời con nạn kẹt xe vẫn chưa được giải quyết.                                                                                                                 TSCH

  • JAMES JOYCELGT: James Joyce (1882 - 1941) là một trong những khuôn mặt lớn nhất của văn xuôi Anh - Ailen và châu Âu thế kỷ XX. Ông “là nhân vật trung tâm của văn xuôi hiện đại”, một trong những nhà văn có ảnh hưởng lớn nhất, gây phản ứng mạnh nhất, “một trong những thần tượng của thời đại” đối với văn nghệ sĩ trẻ và giới trí thức châu Âu đương thời.

  • A THÀNH L.T.S: "Vua cờ" (Kỳ vương) được đăng lần đầu trên tạp chí "Thượng hải văn học" năm 1984. Vừa xuất hiện, "Vua cờ" đã chấn động văn đàn, liên tiếp nhận được nhiều giải thưởng "Trung thiên tiểu thuyết ưu tú" ở cấp tỉnh và trung ương ở Trung Quốc. Tác giả A Thành tên thật là Chung A Thành sinh năm 1949 ở Tứ Xuyên. Đây là tác phẩm đầu tay của ông. Do khuôn khổ tờ báo, chúng tôi không thể in trọn tác phẩm nổi tiếng này khoảng gần 100 trang sách. Dưới đây là chương IV, chương cuối cùng của "Vua cờ".

  • ROBERT SWINDELLS (ANH)Nếu thế giới này bằng phẳng và nếu bạn có thể nhìn thẳng vào mặt trời đang mọc, bạn sẽ nhìn thấy miền đất nơi Nick và Bruin sinh sống. Nơi ban ngày ẩm nhoẹt còn ban đêm thì ngột ngạt ghê người, nơi mặt trời lên như kẻ thù và gió như muốn bốc cháy.

  • ALEXANDER VAMPILOV (NGA)Nikolai Nikolaevich Smirnov tin chắc là ông không sống được đến mùa xuân sang năm.