Minh họa: Bửu Chỉ
“Có phải là bà Pê-rê không ạ?” Bà cụ sẽ mở to mắt, nhìn cậu một cách ngơ ngác, nhưng không ác cảm. Nghĩa là không nghi ngại gì đâu. “Ông là ai? Ông cần gì? - Tôi là bạn của Pê-đrô con bà. Anh nhờ tôi đến đây. Này cậu Đa-ni-en, khoan nói với bà cụ là cậu sẵn tiền tàu xe. Bà cụ sẽ mở cửa như thể chính tôi hồi hương vậy. Rồi cậu xem. “Pê-đrô nhờ ông? Lạy chúa! Không ngờ. Kìa mời ông vào, mời ông, không khéo cảm lạnh. May mắn cho tôi! Không ngờ! Cậu hãy tỏ ra con người phong độ. Bà là mẹ tôi, cậu đừng quên, và nhất là đừng có hố! Cậu cứ ngồi xuống mép ghế và bằng lòng với nước chè. Đừng có đòi rượu mạnh hay rượu ngọt làm gì. “Thế Pê-đrô nó thế nào, thưa ông? Là vì rằng cái thằng quỷ, ấy xin lỗi ông, nó không hề thư từ. Nó lành hạng nhất đấy! Ông đừng nghĩ là tôi buồn nó. Từ miền Căng-dát, nó gửi tiền đều đặn về cho tôi. Ông cũng từ đó mà về đây có phải không? - Vâng ạ. Chúng con làm việc với nhau. - Hai người làm việc với nhau? Thế thì hay quá! Như thế là đồng nghiệp, nhỉ?” Đa-ni-en ạ, tôi chưa hề kể câu chuyện này ra với mẹ tôi. Giống như cậu, cậu chẳng muốn cho Ét-tơ-la biết đầu đuôi trước khi cô nàng đến đây. Tôi cứ sợ cô ta không hiểu mà hoảng hốt. Nhưng bây giờ thì tôi không lùi được nữa rồi. Tôi cưới vợ mà không có mặt bà thì bà không chịu đâu. Cậu nghĩ coi, con một của bà mà lại. Tôi cũng không muốn bà sang tới đây mà đổ ốm theo chuyện này. Tôi đã thân hành đón Ét-tơ-la ở phi trường, cậu nhớ chứ? Vợ của cậu mà, tôi đã bảo là cậu phải tự mình nói ra cho Ét biết. Mà cậu lại bảo: “Nói hộ với Ét là tôi bệnh”, cậu bệnh thật, rồi cậu bảo: “Pê-đrô hãy nói hết cho Ét rõ trên đường từ phi trường về nhà”. Tôi làm theo, cậu không thể phủ nhận. Bây giờ đến lượt cậu, Đa-ni-en à. “Còn hơn là đồng nghiệp nữa đấy. Nhưng để cuối cùng hẵng hay, nhé? Đừng vọt miệng ngay. Đầu tiên là chuyện lấy vợ, kế là vé máy bay và cuối cùng mới là chuyện làm ăn. “Thế Pê-đrô nó thế nào? - Chính con về báo nhiều tin vui cho bác ạ. Tôi chẳng rõ rồi bà cụ có vui cho không. Bà không ngớt bảo tôi: “Tính cho rồi”, và “Hồi nào mới có cháu?”, và “Cậu thế nào mà chẳng quyết đi”. Nhưng cũng có thể bà cụ nổi cơn đố kỵ cũng nên. Thôi thì đối với chuyện về Ê-li-a-na, cậu cứ nói đầu đuôi. Chắc là không khó đối với cậu, nhỉ. “Tin vui gì thế? - Pê-đrô sắp lấy vợ, bác ạ. Cần nhất là cậu đừng hở môi gì về chuyện giữa Ê-li-a-na với cậu trước khi Ét-tơ-la xuất hiện. Mẹ tôi là người rất cổ, cậu ạ. Bằng không bà chẳng hiểu đâu, tôi chắc thế. Tôi không muốn bà cụ hiểu nhầm về Ê-li-a-na. Cậu nên nói bác sĩ Tom-xơn sẽ tham dự lễ cưới. Phải đấy. Để cho bà thấy là đình đám. - Pê-đrô lấy vợ ư? - Vâng ạ. - Lẽ ra nó cho tôi biết trước chứ. Ông nghĩ coi! Lẽ ra nói trước cho tôi chứ. - Giáp ngày con lên đường thì mới biết ạ. - Thế cơ à! Lạy Chúa. Nhưng tôi có nói sao đâu. Vui quá mà. Này ông, ông có biết vợ nay mai của nó không? - Có chứ ạ, cô làm việc với chúng con, cùng một nơi ạ”. Bà cụ sẽ đứng lên, hôn cậu, ôm lấy cậu như thế là ôm chính tôi. Đừng nói. Để cho bà cụ xúc cảm, khổ thân. Cậu nói với bà rằng là chúng nó say sưa yêu nhau, chúng nó hạnh phúc, rằng là không có bạn lứa thì có chết với công việc thôi, v.v… “Cậu bỏ lỗi, tôi có hơi… cậu hiểu cho, đột ngột quá. Ta nghĩ con cái cứ y như là hồi mới sinh. Vô phương tự vệ. Và đùng một cái là thời điểm. Bao giờ cũng bất ngờ. Thế chừng nào đám cưới? - Vâng ạ. Con về đây là vì thế. Anh ấy nhờ con chuyển tiền vé máy bay cho bác. Anh chị đều mong muốn bác đi sang bên ấy. - Đi Căng-dát? - Vâng ạ, để dự đám cưới”. Cậu hãy nhẹ tay đưa phong bì cho bà cụ. Đừng yêu cầu bà đếm tiền lại trước mặt cậu. Tôi biết cậu thích sòng phẳng, cái gì đâu ra đó. Nhưng bà lấy thế làm ngượng. Cứ đưa phong bì rồi bảo là để mua vé, thế thôi. “Tôi chẳng biết nói sao. Chính tôi cũng có để ra ít tiền sang năm thì đi. Nhưng dĩ nhiên chẳng là bao. Đấy, thế là êm, và bà cụ sẽ hiểu được. Hoặc giả bà sẽ hỏi gì đó liên quan tới cha cố, hay là hỏi xem ở Căng-dát người ta có đạo không. Nói với bà là đừng lo. “Anh ấy mong muốn bác có mặt trong ngày lễ. - Hôm nào đấy, anh có biết hôm nào? Cậu đừng đi vào chi tiết. Bác sĩ Tom-xơn bảo phải đợi kỳ kinh nguyệt tới đây. Thế thì cậu tránh nói chi tiết được chừng nào tốt chừng ấy. “Tháng tới đây thì phải, nhưng con không rõ đích xác. Bác bỏ lỗi cho. - Không dám, không dám, tôi phải xin lỗi chứ. Nói chuyện dễ có đến mươi phút mà chẳng mời cậu một cái gì. Cậu dùng gì chứ? - Vâng, bác cho cháu tách chè vậy. Cám ơn bác. - Có ngay. Hãy khoan, cô dâu trông thế nào, ông nhỉ? - Thưa tên là Ê-li-a-này. Đẹp, trầm tính, thông minh. Nói gì nữa bấy giờ? - Tính có tốt không. Có cảm thông, nhẫn nại không? - Tính tốt lắm, thưa bác. Bác khỏi lo. - Ông có vợ rồi chứ? - Có rồi ạ. - Ông hẳn biết việc chọn lựa nó quan trọng như thế nào. Ông thấy con tôi chọn lựa có được không? - Bác chớ lo, anh ấy rất khéo chọn. - Ranh con chẳng lời lẽ gì với tôi. Bà cụ sẽ xuống bếp pha chè. Trở lên, một lúc nào đó thế nào cũng hỏi cậu một câu giúp cậu đề cập vấn đề. “Họ trả lương khá chứ, thưa ông? Ông quý danh thế nào ạ? - To-rơ, thưa Đa-ni-en To-rơ. Bác gọi con Đa-ni-en là xong. - Hồi nào tôi vẫn gọi bạn bè của con bằng tên riêng. Thêm tí đường, Đa-ni-en? - Thưa không ạ. Con không dùng đến. - Không đường vậy. Coi nào, anh bảo là lương tiền khá. Ít ra, mặt ấy cũng là yên cho Pê-đrô. Nó là đứa có tài. Phải một cái nó không gặp may thôi. Thật quả là cả một thời gian không tìm được việc làm. - Cũng khó kiếm việc ở bên ấy. Không có giấy tờ thì lại còn khó hơn. - Nhưng Pê-đrô nó hợp lệ kia mà. Nó viết bảo tôi mà. Nó đã được giấy cư trú. - Vâng, cũng lo xong. May. May cho Pê-đrô kiếm được việc hiện nay. Giải quyết lắm chuyện, bác ạ. - Ở đây cũng chẳng dễ gì, nhưng bên ấy thì cứ ngỡ là dễ thở hơn. Lúc mới đầu, xem ra có vẻ vất vả. Thư từ nó chẳng đả động gì, nhưng tôi biết. Nó không thích đem chuyện mình ra nói. Hồi đi học, các thầy cứ bảo tính nó dè dặt. Đến công ăn việc làm của nó, tôi chẳng biết. Tôi biết là ở tại Căng-dát, thế thôi”. Cậu đừng có thuật lại một hơi. Thong thả, cứ thong thả.
“Thưa đây như thế là một phòng thí nghiệm. - Phòng thí nghiệm! Pê-đrô làm việc trong một phòng thí nghiệm! Ngộ nhỉ! Nó giỏi mà! Cậu biết, bà cụ chỉ thích các bà bạn láng giềng, ông cha xứ suốt ngày kể chuyện tôi. Tôi là đề tài ăn ý nhất của bà. “Nói là phòng thí nghiệm nhưng đó chỉ là một thứ trung tâm thử nghiệm, bác hiểu chứ, một nơi người ta đem ra thử các thứ thuốc, ma túy, trước khi đem ra bán rộng rãi, bác thấy chưa… người ta khảo sát… chích thử… - Phải, phải, rađiô thường hay nói. Chích cái gì đó vào con chuột, rồi sau đó quan sát xem. Nếu như bà cụ nói tới chuột, thì cậu giải thích cho bà nghe khác nhau thế nào. Ét-tơ-la đã từng bán tín bán nghi. Mặt mày trắng dã. Ét có hỏi tôi xem có nguy hiểm không. Tôi phì cười. Để tỏ rõ rằng là công việc nào cũng thế thôi. “Đúng là chuột, thưa bác. Bao giờ khảo sát một liều thuốc nơi chuột, không thấy hiệu nghiệm gì với chuột và họ hàng chuột, thì người ta biết là có thể khởi công chích vào con người ta. - Tội tình nhà chuột. Tôi thì cứ nhát chuột. Nhưng cần phải thế thôi, nhỉ? Vì nhân loại mà. Thế Pê-đrô nó làm cái gì? Nó chăn giữ mấy con thú à? Nó vẫn từng yêu loài vật. - Bác thấy không, ở Hoa Kỳ đạo luật chỉ thị rằng một dược phẩm không được phép đem ra bán nếu như trước đó chưa được thử nghiệm vào một cá thể người. Người đây có nghĩa là người bình thường. - Thế thì tốt quá còn gì! Phải chi khắp nơi trong nước người ta tôn trọng đồng loại được như thế. Có như vậy mới khỏi chích thuốc cho người ta sau đó. Anh biết, tôi thì chẳng thích gì thuốc men. Tôi không tin. Cứ nuốt hết thuốc này đến thuốc kia, tôi thấy chẳng ra làm sao cả. Hết đau cổ đến đau đầu, rồi thuốc ngủ, thêm cả thuốc khỏi đẻ nữa chứ. Bỏ lỗi cho tôi chứ như thế là làm ăn trên cái sợ của những người khác. Thế còn gì. Cậu hãy tìm cách trình bày sự việc thế nào cho thật tự nhiên. Đừng có gây lo cho bà cụ. “Khởi đầu, họ dùng tù binh. Bác rõ chứ, tù binh trong các trại giam. Chích thử thuốc vào các tù binh trước khi đưa thuốc ra bán. - Chích vào tù binh? - Phải, vì rằng, theo các vị bác sĩ và các nhà nghiên cứu thì tù binh sống trong những điều kiện tối ưu. Ăn uống giống nhau, điều kiện giống nhau về sinh sống về khí trời, về giải trí. Người ta an nhiên mà nghiên cứu bọn họ. - Nhưng có khác nào bắt họ hứng chịu hàng loạt nguy cơ! Dễ họ là những kẻ đã giết người, thôi thì cho họ suy ngẫm dăm ba phút về những điều đã gây ra, nhưng dẫu sao… Thì chính báo chí Mỹ cũng bảo thế. Tù binh bằng lòng chịu, được lắm tiền, nhưng bây giờ thì qua rồi. Thế là kêu gọi đến những ai tự nguyện, những người suốt ngày chỉ mỗi việc là ngốn thuốc, thử nghiệm dược phẩm. Người ta cầm giữ loại người này dăm tháng trong phòng. Họ được ở riêng, và như thế người ta có thể đoán đúng tác dụng của thuốc đối với con người ta. - Nguy hiểm ngặt nghèo đối với ai đó tự nguyện nhỉ”. Thống kê cậu ạ. Dẫn chứng mấy con số thống kê ra. Không có nguy hiểm. Còn bảo đảm hơn cả làm tài xế cam nhông hay hơn cả thư ký nữa là khác. Cậu cứ kể ra những tai nạn lao động mà một cô làm thư ký biết đâu gặp phải. Ét-tơ-la có lần không tin, nhưng khi thấy con số thống kê rồi thì bắt đầu thay đổi ý kiến. Đàn bà họ tin con số. “Bác biết cho, nó chẳng nguy hiểm gì hơn một việc làm nào khác ạ” Cậu hãy kể cho bà cụ hay rằng vào đầu người ta miêu tả đủ mọi thứ cho mình rõ, rằng chẳng bao giờ hề hấn gì. Rằng mình được chăm nom cẩn thận. “Anh Đa-ni-en ạ, cho phép tôi nói với anh giống như anh là con tôi vậy. Bởi vì, ngay cả có vợ có con… Anh có con chưa? - Chưa, thưa bác, chưa ạ. - Chớ để thời gian trôi đi, anh ạ. Chuyện con cái, mình phải lợi dụng lúc hãy còn trẻ. Tôi nói cái gì nhỉ? Á, phải rồi, chuyện sức khỏe. Là cái duy nhất của ta nhận từ Chúa. Nó thiêng liêng và ta phải gìn giữ đúng theo giá trị của nó. Tôi, cái sức khỏe quí báu của tôi, tôi đã truyền cho Pê-đrô. Nó không hề cảm mạo. Còn, như những ai đó tự nguyện thì nhất thiết là ngặt nghèo. - Họ ký hợp đồng, thưa bác. Chuyện thiêng liêng ạ. Luật lệ nó thế. Người ta giải thích cho họ rõ họ có thể có loại triệu chứng như thế nào, loại thí nghiệm nào thi hành với họ. - Cái thằng Pê-đrô! Nó không muốn cho tôi hay là phải. Nhưng bây giờ tôi hiểu hết. Nó thừa hiểu tôi không ưa gì những thứ rọi điện, kem xoa, thuốc men. Tôi sợ. Chăm sóc bọn người tội nghiệp được cầm giữ riêng như thế thì quả là nản thật. Xin lỗi, tôi quên là các anh làm cùng một công việc. Mà công việc nào cũng thế thôi. Và lương tiền hậu lắm, phải không? Anh đừng nói lại với nó lời tôi mới nói ra với anh. Với cô dâu lại càng không nên nói. Hứa với tôi, nhé? - Con xin hứa, thưa bác”. Đến đây, cậu hít lấy hơi. Đa-ni-en ạ, rồi tuôn sự thật ra với bà cụ. Tránh cho tôi cái công việc ấy bạn ạ. Đừng nói chi tiết. Đừng nói gì đến triệu chứng. Đừng tiết lộ gì về cơn đau, nôn thốc, về những đêm đánh bạc cho qua. Mấy cái ấy thì đừng. Lại càng không nên nói về chuyện đàn bà, thuốc ngừa thai và các thứ. Tuyệt đối, cậu nghe chứ? Như thể chẳng quan trọng gì, như lời giải thích của bác sĩ Tom-xơn, việc vàn nào cũng thế thôi. “Thế cậu cũng chăm sóc đám người tội nghiệp kia, hả Đa-ni-en? - Thưa bác… vâng. Con cũng… cũng chăm sóc họ. Như Pê-đrô vậy”. A-RI-EN ĐOT-PHƠ-MAN Bửu Ý dịch (12/4-85) |
AZIt NêxinNgày xưa, nhà vua ở một nước nọ có một kho bạc. Nghe đồn rằng trong kho bạc của nhà vua cất giữ một báu vật vô giá duy nhất của nước đó. Mọi người đều tự hào về báu vật mà tổ tiên đã để lại cho họ. “Mặc dầu chúng ta chẳng có gì cả, nhưng tổ tiên đã để cho chúng ta giữ một vật quý”, họ thường tự hào như vậy mà quên đi cảnh túng thiếu của mình.
AZIT NÊXIN (1915 - 1995)Một con chó chạy xồng xộc vào tòa báo "Tin tức đô thành”.
Nhà văn Mỹ Carson Mc Cullers sinh 1917. Các tác phẩm chính của bà là: Trái tim là kẻ đi săn cô độc (1940), Thành viên của đám cưới (1946), Khúc ballad của quán cà phê buồn (1951), Ngọt như dưa chua và sạch như heo (1954)…
Kamala Das tên thật là Kamala Suraiyya, sinh ngày 31.3.1934 tại Punnayurkulam, quận Thrissur, thành phố Kerala, vùng tây nam Ấn Độ. Bà là nhà văn nữ nổi tiếng của Ấn Độ. Bà sáng tác truyện ngắn bằng tiếng Malayalam. Bà sáng tác thơ và tiểu thuyết ngắn bằng tiếng Anh. Bà chủ yếu nổi tiếng trong thể loại truyện ngắn. Trong sự nghiệp sáng tác, bà đã có nhiều giải thưởng văn học, trong số đó là: Asian Poetry Prize, Kent Award for English Writing from Asian Countries, Asan World Prize, Ezhuthachan Award và một số giải thưởng khác nữa. Ngày 31 tháng Năm, 2009, bà mất tại bệnh viện thành phố Pune, Ấn Độ, thọ 75 tuổi.
HERTA MULLERHerta Mueller vừa được trao giải Nobel văn học 2009 vì đã mô tả cảnh tượng mất quyền sở hữu bằng một lối thơ cô đọng và một lối văn thẳng thắn. Truyện ngắn này rút từ tập truyện Nadirs (1982) là tác phẩm đầu tay của bà.
SHERMAN ALEXIENgay sau khi mất việc ở văn phòng giao dịch của người Anh điêng, Victor mới biết cha anh đã qua đời vì một cơn đau tim ở Phoenix, Arizoan. Đã mấy năm nay Victor không gặp cha, anh chỉ nói chuyện với ông qua điện thoại một hay hai lần gì đó, nhưng đó là một căn bệnh di truyền, có thực và xảy ra đột ngột như xương bị gãy vậy.
KOMATSU SAKYOKomatsu Sakyo sinh tại Osaka (Nhật Bản) (28/1/1931). Nhà văn chuyên viết truyện khoa học giả tưởng nổi tiếng của Nhật Bản. Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Kyoto, chuyên ngành Văn học Italia. Từ năm 1957 là phóng viên đài phát thanh Osaka và viết cho một số báo. Năm 1961 chiến thắng trong cuộc thi truyện ngắn giả tưởng xuất sắc do tạp chí “SF Magasines” tổ chức. Tác phẩm của Komatsu đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới. Có bốn tiểu thuyết đã được dựng thành phim.
FRANK R- STOCKTONCách đây năm năm, một sự kiện kì lạ đã xảy đến với tôi. Cái biến cố này làm thay đổi cả cuộc đời tôi, cho nên tôi quyết định viết lại nó. mong rằng nó sẽ là bài học bổ ích cho những người lâm vào tình cảnh giống tôi.
MIKHAIN SÔLÔKHỐP Truyện ngắn Mùa xuân thanh bình đầu tiên đã về lại trên sông Đông sau những năm tháng chiến tranh. Vào cuối tháng Ba, những cơn gió ấm áp cũng đã thổi đến, và chỉ sau hai ngày tuyết cũng đã bắt đầu tan trên đôi bờ sông Đông. Khắp mọi ngả đường việc đi lại cũng vô cùng khó khăn.
KAHLIL GIBRANNguồn: A Treasury of Kahlil Gibran (Một kho tàng của Kahlil Gibran), Anthony Rizcallah Ferrris dịch từ tiếng Arập, Martin L. Wolf biên tập, Nxb Citadel Press, New York, HK, 1951.
ROBERT ZACKS (ANH)Nhân ngày quốc tế phụ nữ, tôi và anh tôi bàn nhau mua quà tặng mẹ. Đây là lần đầu tiên trong đời chúng tôi thực hiện điều này.
GUY DE MAUPASSANTÔng Marrande, người nổi tiếng và lỗi lạc nhất trong các bác sĩ tâm thần, đã mời ba đồng nghiệp cùng bốn nhà bác học nghiên cứu khoa học tự nhiên đến thăm và chứng kiến, trong vòng một giờ đồng hồ, một trong những bệnh nhân tại nhà điều trị do ông lãnh đạo.
GUY DE MAUPASSANTGia đình Creightons rất tự hào về cậu con trai của họ, Frank. Khi Frank học đại học xa nhà, họ rất nhớ anh ấy. Nhưng rồi anh ấy gửi thư về, và rồi cuối tuần họ lại được gặp nhau.
JAMAICA KINCAIDNhà văn hậu hiện đại Anh J. Kincaid sinh năm 1949. Mười sáu tuổi, bà đến New York làm quản gia và giữ trẻ. Bà tự học là chính. Tuyển tập truyện ngắn đầu tiên của bà: “Giữa dòng sông” (1984) nhận được giải thưởng của viện hàn lâm Văn chương và Nghệ thuật Mỹ; còn các tiểu thuyết “Annie” (1985), “Lucky” (1990) được đánh giá cao.
SAM GREENLEE (MỸ)Sam Greenlee sinh tại Chicago, nổi tiếng với thể loại tiểu thuyết.Ông cũng đóng góp nhiều truyện ngắn, bài báo trong “Thế giới da màu” (Black World); và xem như là bộ phận không thể tách rời trong văn nghiệp, bởi ông là nhà văn da màu. Tuy nhiều truyện ngắn của ông vẫn được thể hiện theo lối truyền thống, nghĩa là vào cửa nào ra cửa ấy; nhưng cái cách mở rộng câu chuyện ở giữa truyện, bằng lối kể gần gũi nhiều kinh nghiệm; đã gây được sự thú vị. Đọc “Sonny không buồn” qua bản dịch, dĩ nhiên, khó thấy được cái hay trong lối kể, bởi nếp nghĩ và văn hoá rất khác nhau; nhiều từ-câu-đoạn không tìm được sự tương đương trong tiếng Việt. Cho nên đọc truyện này, chỉ có thể dừng lại ở mức, cùng theo dõi những diễn tiến bên ngoài cũng như sự tưởng tượng bên trong của Sonny về môn bóng rổ, cả hai như một và được kể cùng một lúc.
DƯƠNG UÝ NHIÊN (Trung Quốc)Tôi không thể thay đổi được thói quen gần gũi với cô ấy nên đành trốn chạy ra nước ngoài. Tôi đã gặp được em. Khi đăng tác phẩm “Không thể chia lìa” trên một tạp chí xa tít tắp và dùng bút danh, tôi cho rằng mình không một chút sơ hở. Tôi nhận tiền nhuận bút và mua hai chai rượu quý nồng độ cao trên đường trở về. Tôi muốn nói với em điều gì đó nhân kỷ niệm ngày cưới.
S. MROZEK (Ba Lan)Tại thủ đô của một vương quốc nọ có một viện bảo tàng, trong đó có khu trưng bày về nền nghệ thuật phương Đông. Trong vô số các hiện vật trưng bày tại khu này có nhiều báu vật cực hiếm, giá trị văn hoá và giá trị bằng tiền của chúng vô cùng lớn. Trong số các vật hiếm này có một báu vật đầu bảng, bởi đó là bản duy nhất thuộc loại đó và cũng là bản duy nhất trên toàn cầu. Vì là hiện vật cực hiếm nên giá trị văn hoá của nó là độc nhất vô nhị, còn giá trị bằng tiền thời không tính xuể.
WILLIAM SAROYAN (Mỹ)Cả thế giới muốn tôi làm một chầu hớt tóc. Cái đầu tôi thì quá bự cho thế giới. Quá nhiều tóc đen, thế giới nói thế. Mọi người đều nói, khi nào thì mày định đi làm một chầu hớt tóc vậy hả nhóc kia?
SOMERSET MAUGHAM (ANH)Trang trại nằm giữa thung lũng, giữa những mỏm đồi ở Sômôsetsi. Ngôi nhà xây bằng đá theo mốt cũ được bao bọc bởi những kho củi, sân nhốt súc vật và những công trình bằng gỗ khác. Thời điểm xây dựng được chạm trổ trên cổng bằng những chữ số cổ đẹp đẽ: 1673.
SORBON (Tajikistan)Sorbon sinh năm 1940 tại làng Amondar trong một gia đình nông dân thuộc tập đoàn sản xuất nông nghiệp. Năm 1963 ông tốt nghiệp Đại học Lenin của Tajikistan với bằng tiến sĩ ngôn ngữ học. Các tác phẩm của Sorbon xuất hiện lần đầu vào năm 1965. Tuyển tập truyện ngắn đầu tiên của ông “Không phải tất cả đã được nói ra” xuất bản năm 1969. Nhiều truyện ngắn của ông mau chóng được thu thập lại, trong đó có truyện “Ngày đầu tiên đến trường” nói về một phụ nữ Tajikistan trong Thế chiến thứ Hai, “Sự phòng thủ của đá” và “Người du mục” nói về sự thiết lập chính quyền Xô Viết tại ngôi làng ven sông Zeravshan, và “Áo khoác đồ sộ” nói về một cậu bé bị mất cha trong chiến tranh. Sorbon là nhà văn có tiếng tăm lớn của nền văn xuôi Tajikistan ở thập niên bảy mươi. Truyện ngắn “Người đánh bẫy chim” được viết năm 1974.