Viên thuốc bọc đường

14:13 04/03/2011
A-ri-en Đot-phơ-man sinh năm 1942 tại Chi-lê. Giáo sư dạy thuyết giảng tại Đại học Văn thuộc Viện Đại học Chi-lê, ông phải rời bỏ Chi-lê vào năm 1973, viết truyện ngắn, tiểu luận và thơ.Truyện ngắn Viên thuốc bọc đường viết theo kỹ thuật chen lồng đối thoại và chen lồng hiện tại và tương lai.Nội dung truyện vạch trần sự vật lộn miếng ăn tại Hoa Kỳ khiến cho lắm kẻ tha phương lao vào một số nghề nghiệp nguy hiểm, khốn nạn.

Minh họa: Bửu Chỉ


“Có phải là bà Pê-rê không ạ?”

Bà cụ sẽ mở to mắt, nhìn cậu một cách ngơ ngác, nhưng không ác cảm. Nghĩa là không nghi ngại gì đâu.

“Ông là ai? Ông cần gì?

- Tôi là bạn của Pê-đrô con bà. Anh nhờ tôi đến đây.


Này cậu Đa-ni-en, khoan nói với bà cụ là cậu sẵn tiền tàu xe. Bà cụ sẽ mở cửa như thể chính tôi hồi hương vậy. Rồi cậu xem.

“Pê-đrô nhờ ông? Lạy chúa! Không ngờ. Kìa mời ông vào, mời ông, không khéo cảm lạnh. May mắn cho tôi! Không ngờ!

Cậu hãy tỏ ra con người phong độ. Bà là mẹ tôi, cậu đừng quên, và nhất là đừng có hố! Cậu cứ ngồi xuống mép ghế và bằng lòng với nước chè. Đừng có đòi rượu mạnh hay rượu ngọt làm gì.

“Thế Pê-đrô nó thế nào, thưa ông? Là vì rằng cái thằng quỷ, ấy xin lỗi ông, nó không hề thư từ. Nó lành hạng nhất đấy! Ông đừng nghĩ là tôi buồn nó. Từ miền Căng-dát, nó gửi tiền đều đặn về cho tôi. Ông cũng từ đó mà về đây có phải không?

- Vâng ạ. Chúng con làm việc với nhau.

- Hai người làm việc với nhau? Thế thì hay quá! Như thế là đồng nghiệp, nhỉ?”


Đa-ni-en ạ, tôi chưa hề kể câu chuyện này ra với mẹ tôi. Giống như cậu, cậu chẳng muốn cho Ét-tơ-la biết đầu đuôi trước khi cô nàng đến đây. Tôi cứ sợ cô ta không hiểu mà hoảng hốt. Nhưng bây giờ thì tôi không lùi được nữa rồi. Tôi cưới vợ mà không có mặt bà thì bà không chịu đâu. Cậu nghĩ coi, con một của bà mà lại. Tôi cũng không muốn bà sang tới đây mà đổ ốm theo chuyện này. Tôi đã thân hành đón Ét-tơ-la ở phi trường, cậu nhớ chứ? Vợ của cậu mà, tôi đã bảo là cậu phải tự mình nói ra cho Ét biết. Mà cậu lại bảo: “Nói hộ với Ét là tôi bệnh”, cậu bệnh thật, rồi cậu bảo: “Pê-đrô hãy nói hết cho Ét rõ trên đường từ phi trường về nhà”. Tôi làm theo, cậu không thể phủ nhận. Bây giờ đến lượt cậu, Đa-ni-en à.

“Còn hơn là đồng nghiệp nữa đấy.

Nhưng để cuối cùng hẵng hay, nhé? Đừng vọt miệng ngay. Đầu tiên là chuyện lấy vợ, kế là vé máy bay và cuối cùng mới là chuyện làm ăn.

“Thế Pê-đrô nó thế nào?

- Chính con về báo nhiều tin vui cho bác ạ.

Tôi chẳng rõ rồi bà cụ có vui cho không. Bà không ngớt bảo tôi: “Tính cho rồi”, và “Hồi nào mới có cháu?”,“Cậu thế nào mà chẳng quyết đi”. Nhưng cũng có thể bà cụ nổi cơn đố kỵ cũng nên. Thôi thì đối với chuyện về Ê-li-a-na, cậu cứ nói đầu đuôi. Chắc là không khó đối với cậu, nhỉ.

“Tin vui gì thế?

- Pê-đrô sắp lấy vợ, bác ạ.

Cần nhất là cậu đừng hở môi gì về chuyện giữa Ê-li-a-na với cậu trước khi Ét-tơ-la xuất hiện. Mẹ tôi là người rất cổ, cậu ạ. Bằng không bà chẳng hiểu đâu, tôi chắc thế. Tôi không muốn bà cụ hiểu nhầm về Ê-li-a-na. Cậu nên nói bác sĩ Tom-xơn sẽ tham dự lễ cưới. Phải đấy. Để cho bà thấy là đình đám.

- Pê-đrô lấy vợ ư?

- Vâng ạ.

- Lẽ ra nó cho tôi biết trước chứ. Ông nghĩ coi! Lẽ ra nói trước cho tôi chứ.

- Giáp ngày con lên đường thì mới biết ạ.

- Thế cơ à! Lạy Chúa. Nhưng tôi có nói sao đâu. Vui quá mà. Này ông, ông có biết vợ nay mai của nó không?

- Có chứ ạ, cô làm việc với chúng con, cùng một nơi ạ”.


Bà cụ sẽ đứng lên, hôn cậu, ôm lấy cậu như thế là ôm chính tôi. Đừng nói. Để cho bà cụ xúc cảm, khổ thân. Cậu nói với bà rằng là chúng nó say sưa yêu nhau, chúng nó hạnh phúc, rằng là không có bạn lứa thì có chết với công việc thôi, v.v…

“Cậu bỏ lỗi, tôi có hơi… cậu hiểu cho, đột ngột quá. Ta nghĩ con cái cứ y như là hồi mới sinh. Vô phương tự vệ. Và đùng một cái là thời điểm. Bao giờ cũng bất ngờ. Thế chừng nào đám cưới?

- Vâng ạ. Con về đây là vì thế. Anh ấy nhờ con chuyển tiền vé máy bay cho bác. Anh chị đều mong muốn bác đi sang bên ấy.

- Đi Căng-dát?

- Vâng ạ, để dự đám cưới”.


Cậu hãy nhẹ tay đưa phong bì cho bà cụ. Đừng yêu cầu bà đếm tiền lại trước mặt cậu. Tôi biết cậu thích sòng phẳng, cái gì đâu ra đó. Nhưng bà lấy thế làm ngượng. Cứ đưa phong bì rồi bảo là để mua vé, thế thôi.

“Tôi chẳng biết nói sao. Chính tôi cũng có để ra ít tiền sang năm thì đi. Nhưng dĩ nhiên chẳng là bao.

Đấy, thế là êm, và bà cụ sẽ hiểu được. Hoặc giả bà sẽ hỏi gì đó liên quan tới cha cố, hay là hỏi xem ở Căng-dát người ta có đạo không. Nói với bà là đừng lo.

“Anh ấy mong muốn bác có mặt trong ngày lễ.

- Hôm nào đấy, anh có biết hôm nào?


Cậu đừng đi vào chi tiết. Bác sĩ Tom-xơn bảo phải đợi kỳ kinh nguyệt tới đây. Thế thì cậu tránh nói chi tiết được chừng nào tốt chừng ấy.

“Tháng tới đây thì phải, nhưng con không rõ đích xác. Bác bỏ lỗi cho.

- Không dám, không dám, tôi phải xin lỗi chứ. Nói chuyện dễ có đến mươi phút mà chẳng mời cậu một cái gì. Cậu dùng gì chứ?

- Vâng, bác cho cháu tách chè vậy. Cám ơn bác.

- Có ngay. Hãy khoan, cô dâu trông thế nào, ông nhỉ?

- Thưa tên là Ê-li-a-này. Đẹp, trầm tính, thông minh. Nói gì nữa bấy giờ?

- Tính có tốt không. Có cảm thông, nhẫn nại không?

- Tính tốt lắm, thưa bác. Bác khỏi lo.

- Ông có vợ rồi chứ?

- Có rồi ạ.

- Ông hẳn biết việc chọn lựa nó quan trọng như thế nào. Ông thấy con tôi chọn lựa có được không?

- Bác chớ lo, anh ấy rất khéo chọn.

- Ranh con chẳng lời lẽ gì với tôi.


Bà cụ sẽ xuống bếp pha chè. Trở lên, một lúc nào đó thế nào cũng hỏi cậu một câu giúp cậu đề cập vấn đề.

“Họ trả lương khá chứ, thưa ông? Ông quý danh thế nào ạ?

- To-rơ, thưa Đa-ni-en To-rơ. Bác gọi con Đa-ni-en là xong.

- Hồi nào tôi vẫn gọi bạn bè của con bằng tên riêng. Thêm tí đường, Đa-ni-en?

- Thưa không ạ. Con không dùng đến.

- Không đường vậy. Coi nào, anh bảo là lương tiền khá. Ít ra, mặt ấy cũng là yên cho Pê-đrô. Nó là đứa có tài. Phải một cái nó không gặp may thôi. Thật quả là cả một thời gian không tìm được việc làm.

- Cũng khó kiếm việc ở bên ấy. Không có giấy tờ thì lại còn khó hơn.

- Nhưng Pê-đrô nó hợp lệ kia mà. Nó viết bảo tôi mà. Nó đã được giấy cư trú.

- Vâng, cũng lo xong. May. May cho Pê-đrô kiếm được việc hiện nay. Giải quyết lắm chuyện, bác ạ.

- Ở đây cũng chẳng dễ gì, nhưng bên ấy thì cứ ngỡ là dễ thở hơn. Lúc mới đầu, xem ra có vẻ vất vả. Thư từ nó chẳng đả động gì, nhưng tôi biết. Nó không thích đem chuyện mình ra nói. Hồi đi học, các thầy cứ bảo tính nó dè dặt. Đến công ăn việc làm của nó, tôi chẳng biết. Tôi biết là ở tại Căng-dát, thế thôi
”.

Cậu đừng có thuật lại một hơi. Thong thả, cứ thong thả.


“Thưa đây như thế là một phòng thí nghiệm.

- Phòng thí nghiệm! Pê-đrô làm việc trong một phòng thí nghiệm! Ngộ nhỉ! Nó giỏi mà!


Cậu biết, bà cụ chỉ thích các bà bạn láng giềng, ông cha xứ suốt ngày kể chuyện tôi. Tôi là đề tài ăn ý nhất của bà.

“Nói là phòng thí nghiệm nhưng đó chỉ là một thứ trung tâm thử nghiệm, bác hiểu chứ, một nơi người ta đem ra thử các thứ thuốc, ma túy, trước khi đem ra bán rộng rãi, bác thấy chưa… người ta khảo sát… chích thử…

- Phải, phải, rađiô thường hay nói. Chích cái gì đó vào con chuột, rồi sau đó quan sát xem
.

Nếu như bà cụ nói tới chuột, thì cậu giải thích cho bà nghe khác nhau thế nào. Ét-tơ-la đã từng bán tín bán nghi. Mặt mày trắng dã. Ét có hỏi tôi xem có nguy hiểm không. Tôi phì cười. Để tỏ rõ rằng là công việc nào cũng thế thôi.

“Đúng là chuột, thưa bác. Bao giờ khảo sát một liều thuốc nơi chuột, không thấy hiệu nghiệm gì với chuột và họ hàng chuột, thì người ta biết là có thể khởi công chích vào con người ta.

- Tội tình nhà chuột. Tôi thì cứ nhát chuột. Nhưng cần phải thế thôi, nhỉ? Vì nhân loại mà. Thế Pê-đrô nó làm cái gì? Nó chăn giữ mấy con thú à? Nó vẫn từng yêu loài vật.

- Bác thấy không, ở Hoa Kỳ đạo luật chỉ thị rằng một dược phẩm không được phép đem ra bán nếu như trước đó chưa được thử nghiệm vào một cá thể người. Người đây có nghĩa là người bình thường.

- Thế thì tốt quá còn gì! Phải chi khắp nơi trong nước người ta tôn trọng đồng loại được như thế. Có như vậy mới khỏi chích thuốc cho người ta sau đó. Anh biết, tôi thì chẳng thích gì thuốc men. Tôi không tin. Cứ nuốt hết thuốc này đến thuốc kia, tôi thấy chẳng ra làm sao cả. Hết đau cổ đến đau đầu, rồi thuốc ngủ, thêm cả thuốc khỏi đẻ nữa chứ. Bỏ lỗi cho tôi chứ như thế là làm ăn trên cái sợ của những người khác. Thế còn gì
.

Cậu hãy tìm cách trình bày sự việc thế nào cho thật tự nhiên. Đừng có gây lo cho bà cụ.

“Khởi đầu, họ dùng tù binh. Bác rõ chứ, tù binh trong các trại giam. Chích thử thuốc vào các tù binh trước khi đưa thuốc ra bán.

- Chích vào tù binh?

- Phải, vì rằng, theo các vị bác sĩ và các nhà nghiên cứu thì tù binh sống trong những điều kiện tối ưu. Ăn uống giống nhau, điều kiện giống nhau về sinh sống về khí trời, về giải trí. Người ta an nhiên mà nghiên cứu bọn họ.

- Nhưng có khác nào bắt họ hứng chịu hàng loạt nguy cơ! Dễ họ là những kẻ đã giết người, thôi thì cho họ suy ngẫm dăm ba phút về những điều đã gây ra, nhưng dẫu sao…

Thì chính báo chí Mỹ cũng bảo thế. Tù binh bằng lòng chịu, được lắm tiền, nhưng bây giờ thì qua rồi. Thế là kêu gọi đến những ai tự nguyện, những người suốt ngày chỉ mỗi việc là ngốn thuốc, thử nghiệm dược phẩm. Người ta cầm giữ loại người này dăm tháng trong phòng. Họ được ở riêng, và như thế người ta có thể đoán đúng tác dụng của thuốc đối với con người ta.

- Nguy hiểm ngặt nghèo đối với ai đó tự nguyện nhỉ
”.

Thống kê cậu ạ. Dẫn chứng mấy con số thống kê ra. Không có nguy hiểm. Còn bảo đảm hơn cả làm tài xế cam nhông hay hơn cả thư ký nữa là khác. Cậu cứ kể ra những tai nạn lao động mà một cô làm thư ký biết đâu gặp phải. Ét-tơ-la có lần không tin, nhưng khi thấy con số thống kê rồi thì bắt đầu thay đổi ý kiến. Đàn bà họ tin con số.

“Bác biết cho, nó chẳng nguy hiểm gì hơn một việc làm nào khác ạ”

Cậu hãy kể cho bà cụ hay rằng vào đầu người ta miêu tả đủ mọi thứ cho mình rõ, rằng chẳng bao giờ hề hấn gì. Rằng mình được chăm nom cẩn thận.

“Anh Đa-ni-en ạ, cho phép tôi nói với anh giống như anh là con tôi vậy. Bởi vì, ngay cả có vợ có con… Anh có con chưa?

- Chưa, thưa bác, chưa ạ.

- Chớ để thời gian trôi đi, anh ạ. Chuyện con cái, mình phải lợi dụng lúc hãy còn trẻ. Tôi nói cái gì nhỉ? Á, phải rồi, chuyện sức khỏe. Là cái duy nhất của ta nhận từ Chúa. Nó thiêng liêng và ta phải gìn giữ đúng theo giá trị của nó. Tôi, cái sức khỏe quí báu của tôi, tôi đã truyền cho Pê-đrô. Nó không hề cảm mạo. Còn, như những ai đó tự nguyện thì nhất thiết là ngặt nghèo.

- Họ ký hợp đồng, thưa bác. Chuyện thiêng liêng ạ. Luật lệ nó thế. Người ta giải thích cho họ rõ họ có thể có loại triệu chứng như thế nào, loại thí nghiệm nào thi hành với họ.

- Cái thằng Pê-đrô! Nó không muốn cho tôi hay là phải. Nhưng bây giờ tôi hiểu hết. Nó thừa hiểu tôi không ưa gì những thứ rọi điện, kem xoa, thuốc men. Tôi sợ. Chăm sóc bọn người tội nghiệp được cầm giữ riêng như thế thì quả là nản thật. Xin lỗi, tôi quên là các anh làm cùng một công việc. Mà công việc nào cũng thế thôi. Và lương tiền hậu lắm, phải không? Anh đừng nói lại với nó lời tôi mới nói ra với anh. Với cô dâu lại càng không nên nói. Hứa với tôi, nhé?

- Con xin hứa, thưa bác”
.

Đến đây, cậu hít lấy hơi. Đa-ni-en ạ, rồi tuôn sự thật ra với bà cụ. Tránh cho tôi cái công việc ấy bạn ạ. Đừng nói chi tiết. Đừng nói gì đến triệu chứng. Đừng tiết lộ gì về cơn đau, nôn thốc, về những đêm đánh bạc cho qua. Mấy cái ấy thì đừng. Lại càng không nên nói về chuyện đàn bà, thuốc ngừa thai và các thứ. Tuyệt đối, cậu nghe chứ? Như thể chẳng quan trọng gì, như lời giải thích của bác sĩ Tom-xơn, việc vàn nào cũng thế thôi.

“Thế cậu cũng chăm sóc đám người tội nghiệp kia, hả Đa-ni-en?

- Thưa bác… vâng. Con cũng… cũng chăm sóc họ. Như Pê-đrô vậy”
.

A-RI-EN ĐOT-PHƠ-MAN
Bửu Ý dịch
(12/4-85)






Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LTS: Henri Troyat (1-11-1911_4-3-2007) sinh tại Matx-cơ-va, định cư ở Pháp kể từ 1920, thuộc Viện Hàn lâm quốc gia Pháp từ 1959, một trong những cây bút viết khỏe nhất của văn học Pháp hiện đại. Chuyên viết tiểu thuyết, truyện ngắn. Ngoài ra, nghiên cứu về Đốtx-tôi-ép-xki, Tôn-xtôi, Lét-mông-tốp, Ô-la, Ban-zắc… Truyện ngắn của ông giàu nét dí dỏm, ký họa.

  • Atiq Rahimi sinh năm 1962 tại Afghanistan, nhưng đến sống ở Pháp vào năm 1984. Tại Pháp ông trở thành một nhà văn, nhà làm phim tài liệu và phim truyện nổi tiếng. Tiểu thuyết của ông “The Patience Stone - “Nhẫn thạch” được giải thưởng danh giá Prix Goncourt năm 2008. Phim dựa trên tiểu thuyết của ông “Earth and Ashes - Đất và Tro” được tuyển chọn chính thức tại liên hoan phim Cannes năm 2004 và được một số giải thưởng.

  • IVAN XÔCHIVESNgười chồng lý tưởng - đấy là tôi. Mẹ vợ, vợ tôi và đa số bạn gái của nàng đều gọi tôi như vậy.

  • LTS: Nhà văn Xô-viết Alêchxây Marinat là tác giả nổi tiếng của một số tiểu thuyết và kịch. Nhưng những tác phẩm làm cho ông nổi tiếng trước hết đối với tất cả các độc giả là những truyện ngắn hài hước. Tính hài hước trong các truyện ngắn của ông rất nhẹ nhàng nhưng sắc sảo. “Hoa tặng Ka-lum-ba” là một trong những truyện ngắn tiêu biểu của Alêchxây Marinat.

  • LTS: Vaxin Bưcốp sinh năm 1924 tại làng Tsê-rê-pốp-si-na, vùng Vi-tép-xcơ, nước cộng hòa Bêlôruxia. Ông từng đứng trong hàng ngũ quân đội Xô Viết chiến đấu chống phát-xít Đức. Tác phẩm của ông bắt đầu được xuất bản từ năm 1956. Ông thuộc một trong những tác giả viết về chiến tranh nổi tiếng của Liên Xô. Những tác phẩm của ông được nhiều người biết đến là: Phát tên lửa thứ ba, cuộc hành quân núi An-pơ, những người chết không biết đến xấu hổ, những con chó sói… ông đã nhận giải thưởng quốc gia của Liên Xô, giải thưởng I-a-cúp Kô-la-xơ của nước cộng hòa.

  • LTS: William Somerset Maugham (1874 - 1965) là một nhà văn Anh nổi tiếng, viết nhiều, với bút pháp hiện thực sắc sảo, soi rọi những khía cạnh mâu thuẫn nghịch chiều của cuộc sống, phác hiện những nét sâu kín của bản tính con người. Lối văn của ông trong sáng, khúc chiết, ông lại có biệt tài dẫn truyện hấp dẫn, lý thú, đặc biệt phong cách của ông thường hài hước, sâu cay.Là nhà văn đa tài, ông vừa là tiểu thuyết gia có tiếng, vừa là người viết truyện ngắn bậc thầy, và cũng là một kịch tác gia thành công.

  • NOBUKO TAKAGI(Tiếp theo Sông Hương số 256 tháng 6 - 2010)

  • LTS: Tên tuổi Azit Nê-xin đã trở nên quen thuộc với chúng ta. Là tác giả của tập truyện châm biếm nổi tiếng “Những người thích đùa” đã được dịch ra tiếng Việt, ông là trưởng đoàn nhà văn Thổ Nhĩ Kỳ dự hội nghị BCH Hội Nhà văn Á Phi và cuộc gặp gỡ các nhà văn Á Phi ở nước ta vào tháng 10-1982.

  • A-đa-mô-vích sinh ra và lớn lên cùng cha mẹ trong làng công nhân ở Gơ-lu-sa, tại Bi-ê-lô-rút-xi-a. Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, nhà văn mới 14 tuổi nhưng đã theo mẹ và anh tiếp tế cho du kích quân.

  • LGT: Bóng cây phong lan được trích từ tuyển tập truyện ngắn Nhật Bản có nhan đề chung Bên trong do Nhà xuất bản Kodansha tuyển chọn và giới thiệu, được Nhà xuất bản Thuận Hóa (Huế) tổ chức dịch ra tiếng Việt và phát hành ở trong nước. Tuyển tập gồm 8 truyện ngắn của 8 nhà văn nữ với đề từ chung: Phụ nữ Nhật viết về phụ nữ Nhật. Bên trong là nhan đề, mà cũng là chủ đề của tất cả các truyện: Phía trong tâm hồn và phía trong thân thể của người phụ nữ.

  • EDWARD D. HOCHGần như ngay từ ngày cưới của họ cách đây 17 năm, William Willis đã căm ghét vợ mình, nhưng chưa một lần nào anh ta nghĩ đến chuyện giết người. Anh ta sẵn lòng ở ngoài suốt cả ngày, lái xe tới cơ quan mỗi sáng, quay trở về nhà mỗi tối, và đơn giản là bỏ ngoài tai cái giọng lải nhải đều đều của vợ.

  • LTS. S. Rajaratnam thuộc thế hệ những nhà văn cũ của Singapo. Ông có thời làm Bộ trưởng Ngoại giao của Singapo. Truyện ngắn của ông mang chất thơ và tính nhân bản cao. Sông Hương xin giới thiệu một trong những truyện ngắn hay của Rajaratnam.

  • DANIEL BOULANGERĐó là mùa thu ở Concile, thành Rome mang mọi vẻ Rome và ở đó người ta đã không còn kiếm được nơi cho thuê phòng nữa.

  • Corrado AlvaroThời gian như muốn chững lại. Hơi nóng vẫn còn hừng hực, bầu trời mờ mờ hơi nước, những con ve kêu rả riết, ở phía tây, chân trời quang hơn, vài cụm mây như bị một nét bút quệt xuống. Cơn mưa hẳn là ở mãi xa nên người ta bắt đầu hái nho.

  • GABRIEL GARCIA MARQUEZ (COLUMBIA) Ngài nghị sĩ Onesimo Sanchez trước cái chết của ngài có sáu tháng và mười một ngày để đi khi ngài tìm thấy người phụ nữ của đời ngài.

  • Paul William Gallico (1897-1976) là một nhà văn, phóng viên thể thao nổi tiếng của Mỹ. Nhiều tác phẩm của ông đã được chuyển thể thành phim truyện, phim truyền hình, có tác phẩm đã đạt giải Oscar. Cha ông người Ý, mẹ người Áo, bản thân ông đã nhiều năm sống ở châu Âu. Là người đa tài và viết khỏe, ông có hàng chục đầu sách: tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch bản phim truyền hình, thể thao. Những tác phẩm nổi tiếng của Gallico là: Ngỗng tuyết, Tình yêu của bảy con búp bê, Cuộc phiên lưu Poseidon.

  • ANTONIO TABUCCHIAntonio Tabucchi (sinh năm 1945) là một trong những nhà văn được đọc nhiều nhất và dịch nhiều nhất hiện nay của Italia, bậc thầy nổi tiếng về truyện ngắn tâm lý.

  • IVAN BUNHINLúc ông ta đội mũ, đi trên phố hay đứng trong toa tàu điện ngầm không thấy rõ mái tóc cắt ngắn hung hung đỏ có những sợi lóng lánh, qua vẻ tươi tỉnh của gương mặt gầy, nhẵn nhụi, thân hình cao xương xương cứng đơ trong chiếc pan- tô không thấm, có thể đoán ông không quá 40. Chỉ cặp mắt xám nhạt luôn chứa một nỗi buồn khô khốc nói lên rằng ông là một người đã nếm trải nhiều trong cuộc đời.

  • LTS: Anatoli Kudraves là một nhà văn Beloruxia tài năng. Phần lớn các tác phẩm của ông thể hiện cuộc sống của những người nông dân, người chủ chân chính, giàu bản sắc riêng và chân thành của chính quê hương mình. Tác giả đã dẫn dắt nhân vật của mình trải qua công việc tập thể hóa nông nghiệp, trải qua những năm tháng khốc liệt của cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại và cả thời kỳ kinh tế đổ nát sau chiến tranh cho đến ngày hôm nay.

  • BỒ TÙNG LINHLang Mỗ quê ở Bành Thành, con nhà học thức. Ngày nhỏ đã được nghe cha nói đến các sách quý và các sách khác trong nước, lại thường được nghe cha luận bàn với các bạn bè của ông về các loại sách và các nhà thơ cổ đại.