ĐOÀN XANH
Nhà thơ, nhà báo Thúc Tề bị Pháp thủ tiêu khi mới 30 tuổi. Gần 50 năm sau, bí mật được phát lộ, Nhà nước đã truy tặng ông danh hiệu Liệt sĩ với bằng Tổ quốc ghi công.
Di ảnh nhà thơ liệt sĩ Thúc Tề
Quê hương yêu dấu
Tôi về làng Mỹ Lam trong một sáng mù sương. Cái thứ sương mù này báo hiệu một ngày trúng vụ cá tôm của ngư dân đầm Sam và đầm Chuồn. Những bác nông dân nhiệt tình chỉ đường cho tôi vào làng, đường đến nhà thờ họ Nguyễn, đường đến chợ Sam… Mới nhắc tên nhà thơ Thúc Tề, họ đã ân cần hướng dẫn nhiệt tình. Rõ ràng họ rất tự hào về ông. Từ khi thành phố Huế có một con đường mang tên nhà thơ Thúc Tề, thì ông không còn xa lạ như trước kia.
Đi thăm chợ Sam thấy còn nguyên dáng vẻ chợ làng như xưa. Trông hơi lụp xụp, nhếch nhác nhưng hàng hóa thổ sản địa phương thì khá phong phú. Tấp nập người mua kẻ bán đến từ những làng quê lân cận của các xã Phú Hồ, Phú Mỹ, Thủy Thanh, Thủy Vân, Phú Thuận, Phú Hải… Xưa, tại chợ này thân mẫu của nhà thơ Thúc Tề ngày ngày tảo tần buôn bán. Một tay bà chăm lo kinh tế cho một gia đình “giàu” chữ nhưng lại “nghèo” tiền của. Lúc chưa về làm dâu họ Nguyễn làng Mỹ Lam, bà vốn là tiểu thơ con út của phụ chính đại thần Tôn Thất Thuyết chức cao vọng trọng. Ông có phủ đệ ở làng Vân Thê bên kia sông Như Ý đối diện với làng Mỹ Lam.
![]() |
Nhà thờ họ Nguyễn Thúc mới được trùng tu |
Trong gia phả, Thúc Tề tên thật là Nguyễn Thúc Nhuận, sinh ngày 17/10/1916 ở làng Mỹ Lam (xã Phú Mỹ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế). Xuất thân trong một gia đình nhà Nho yêu nước. Thời đi học, ông là bạn thân của Hàn Mạc Tử, Trần Thanh Mại, Trần Thanh Địch. Tại trường Quốc Học Huế, ông học trên Huy Cận 2 lớp. Đến năm thứ 4 (1935) ông bị đuổi học vì viết báo đả kích người Pháp. Sau đó, ông vào Sài Gòn viết báo (ký bút danh Lãng Tử), rồi làm chủ bút các tuần báo Đông Dương và Mai. Ngoài làm báo, ông còn làm thơ, viết văn. Thơ ông được in thành sách khá sớm. Văn thì có tập phóng sự Nợ văn (đã xuất bản) và tập Phù Dung và nhan sắc (bản thảo bị thất lạc). Năm 1940, tuần báo Mai bị chính quyền thực dân Pháp đóng cửa, và năm 1941 ông bị buộc phải trở lại Huế. Sớm có tư tưởng yêu nước, chống Pháp, cuộc đời của ông dần chuyển sang một hướng mới vào năm 1941 khi tham gia phong trào Việt Minh và hoạt động tích cực trong “Hội văn hóa cứu quốc”. Nhà giáo nhân dân, giáo sư Đinh Xuân Lâm nhận xét về tập phóng sự: “Nợ Văn là một tác phẩm mang tính hiện thực sâu sắc về cuộc đời làm báo và thân phận người làm báo khi đất nước còn bị ngoại bang thống trị”. Nhà văn Trần Thanh Địch, bạn của Thúc Tề thời đó nhận xét: “Thúc Tề là cây bút có giọng điệu hài hước, đả kích rất sắc sảo. Giới chính quyền, văn nghệ, sâu mọt hại dân đều rất ngán các bài ký tên Thúc Tề”.
![]() |
Về lại Huế, ông đã cùng nhà văn Hải Triều xây dựng cơ quan Sở Thông tin truyền thông Trung Bộ, Ty Thông tin tuyên truyền Thừa Thiên. Một lần, trên đường đi công tác, Thúc Tề bị Pháp bí mật bắt rồi thủ tiêu, ở gần ga Truồi, huyện Phú Lộc vào cuối năm 1946, lúc ấy ông mới 30 tuổi. Gần 50 năm sau khi mất tích, qua tài liệu tổng kết của Công an tỉnh Thừa Thiên Huế mới được biết ông đã bị bọn mật thám Pháp bắt giết. Năm 1995, Nhà nước đã truy tặng Thúc Tề danh hiệu Liệt sĩ với bằng Tổ quốc ghi công. Hội Nhà báo Việt Nam cũng truy tặng Huy chương vì sự nghiệp báo chí Việt Nam cho nhà báo, liệt sĩ Thúc Tề.
Thơ như phận người
Thúc Tề làm thơ không nhiều. Trăng mơ là thi phẩm duy nhất được in trên Hà Nội báo năm 1938, sau đó được Hoài Thanh tuyển đưa vào Thi nhân Việt Nam. Nếu Thúc tề không hy sinh vì giặc Pháp thì tác phẩm của ông chắc không chỉ có vậy? Khi Trăng mơ được Hoài Thanh chọn đưa vào Thi nhân Việt Nam, nhà phê bình văn học đã viết: “Ngâm đi ngâm lại hoài, cố lấy hồn tôi để hiểu hồn người, mỗi bài thơ hay là mỗi cánh cửa mở cho tôi đi vào một tâm hồn”.
Một đêm mờ lạnh ánh gương phai
Suốt giải sông Hương nước thở dài
Xào xạc sóng buồn khuơ bãi sậy
Bập bềnh bên mạn chiếc thuyền ai
Đối với người đọc, cảm thụ Trăng mơ trước hết là một thi phẩm đẹp, lãng mạn, quyến rũ lòng người. Đó là cánh cửa nhà thơ hé mở để chúng ta đi vào cái man mác buồn của đất trời kinh thành ly loạn, mà cũng là của lòng người.
Mây xám xây thành trên núi Bắc
Nhạc mềm chới với giữa sương êm
Trăng mờ mơ ngủ lim dim gật
Ẻo lả nằm trên ngọn trúc mềm
Khổ thơ tiếp theo cũng là không gian và thời gian ấy, nhưng tựu trung vẫn giữ nét buồn của bức tranh thiên nhiên. Tạo nên cảm quan mỹ học của chủ nghĩa lãng mạn mà chủ thể sáng tạo lấy đó làm cảm hứng.
Nhịp cầu Bạch Hổ mấy bóng ma
Biến mất vì nghe giục tiếng gà
Trăng tỉnh giấc mơ, lười biếng dậy
Động lòng lệ liễu, giọt sương sa
Trong thơ tràn ngập âm thanh, màu sắc của thiên nhiên tương ứng cùng một thế giới đêm huyền ảo.
Lai láng niềm trăng tuôn dạ nước
Ngập tràn sông trắng gợn bâng khuâng
Hương trăng quấn quýt hơi sương ướt
Ngân dội lời tình điệu hát xuân
Không ai khác, Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam đã nhận xét rất cô đọng mà lột tả được cái thần của Trăng mơ: “Tôi yêu bài Trăng mơ của Thúc Tề. Mở bài ra, hồn thi nhân kéo mình lê thê trên trang giấy, chán nản, uể oải. Có lẽ nó đã nhập vào cái trăng kia, “ẻo lả” khi nằm mơ, “lười biếng” khi thức dậy. Nhưng khi đã tỉnh, nó mới linh động làm sao! Nó uyển chuyển như một người đẹp. Cái mệt mỏi của Dương Quý Phi với cái nhẹ nhàng của Phi Yến”.
Đ.X
(SDB13/06-14)
PHẠM THỊ ANH NGA
Giới văn học nghệ thuật trong Nam ngoài Bắc cũng như những người từng là học trò của ông thường nói với nhau, tưởng như đùa nhưng lại rất thật, rằng đến Huế mà chưa ghé thăm ông thì coi như là chưa đến Huế, gì thì gì vẫn cứ... thiếu.
LÊ HUỲNH LÂM
Văn chương như một món ăn tinh thần cho mọi người. Đối với những người đam mê, các tác phẩm văn chương như hơi thở, như máu thịt. Ngoài việc là món ăn tinh thần, văn chương như những con đường vươn ra dẫn dắt để nối kết, giao thoa giữa quốc gia này với quốc gia khác, giữa vùng miền văn hóa này với vùng miền văn hóa khác.
LÊ VĂN LÂN
Trong phong trào đô thị Huế, từ phong trào hòa bình 1954 - 1955, phong trào Phật giáo ở Huế những năm 1963 - 1964 đến phong trào li khai ở Huế 1966, có một nhân vật khi nhắc đến hầu như ai cũng biết - đó là bác sĩ Lê Khắc Quyến, nguyên Giám đốc Bệnh viện Trung ương Huế, nguyên Khoa trưởng Đại học Y khoa Huế.
ĐỖ MINH ĐIỀN
Ngày 01/10/2012, một tin vui không chỉ dành riêng cho Huế khi bộ Cửu vị thần công là 1 trong 30 hiện vật/nhóm hiện vật đã được công nhận là Bảo vật Quốc gia Việt Nam.
NGUYỄN MINH VỸ
Hồi ký
Thú thật với các bạn Tạp chí Sông Hương và những ai cùng quê là trước Cách mạng Tháng 8-1945 tôi có phần nào "mặc cảm" vì cái gốc Thừa Thiên của mình.
LƯƠNG AN
Vào đầu nửa sau thế kỷ 19, tại Phú Xuân (tức Huế bây giờ), giữa lúc tiếng tăm hai anh em Miên Thẩm và Miên Trinh đang lừng lẫy, một sự kiện bỗng thu hút sự chú ý của giới thơ kinh thành: sự xuất hiện gần như đồng thời của Tam Khanh(1), ba nhà thơ nữ người hoàng tộc, trong đó, Thúc Khanh được ca ngợi nhiều hơn cả.
(SHO) Tiến sĩ Lê văn Hảo quê ở Huế, con trai ông Lê Văn Tập - một đại phú gia ở miền Trung, du học Pháp (1953), đỗ Tiến sĩ Đệ Tam cấp ngành Dân tộc học (1961) tại Đại học Sorbonne, làm việc tại Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia Pháp (Centre national de la recherche scientifique) một thời gian rồi về nước (1965) giảng dạy Dân tộc học và Văn minh Việt Nam tại các Đại học Văn khòa Huế, Đại học Văn khoa Sài Gòn.
Có một người phụ nữ xứ Huế sinh sống và giảng dạy tại CHLB Đức nhưng luôn dành tình trang trọng chiếc áo dài Việt Nam. Bà là TS triết học Thái Kim Lan, với bà, áo dài làm nên một phần bản sắc vẻ đẹp phụ nữ Việt Nam.
NGUYỄN HỒNG TRÂN
Như chúng ta đã biết qua sách sử, cựu Hoàng đế Bảo Đại có 2 người vợ được hôn thú chính thức. Đó là bà Nguyễn Hữu Thị Lan (tức Nam Phương Hoàng hậu) và bà người Pháp là Monique Marie Eugene Baudot.
LÊ VĂN LÂN
Những thập niên cuối thế kỷ XX, có một nhân vật lúc ẩn lúc hiện như rồng trong mây, như kình ngư giữa đại dương, có mặt ở các thời điểm lịch sử, có tác động đến phong trào giải phóng dân tộc ở Thừa Thiên Huế nói chung và phong trào đô thị Huế nói riêng.
PHAN THUẬN AN
"Hôm nay, Ngài trở về trong lòng đất mẹ thân yêu, trở về giữa tất cả đồng bào con Hồng cháu Lạc, trở về bên núi Ngự, sông Hương...
"Chúng ta thành kính cầu cho nhà vua đời đời yên nghỉ.
"Lòng yêu nước của nhà vua còn sáng mãi với sử xanh".
NGUYỄN ĐẮC XUÂN
LTS: Thời Pháp thuộc cũng như thời tạm chiếm, những “thượng khách” đến du lịch Huế thường được bà công chúa Lương Linh (con gái thứ 19 của vua Thành Thái và là em út của vua Duy Tân) hướng dẫn.
LÊ TIẾN DŨNG
Một ngày cuối thu tháng Mười năm 1965 tôi nghe qua Đài Tiếng nói Việt Nam một tin quan trọng: Hội Văn nghệ Giải phóng công bố Giải thưởng Văn học Nghệ thuật Nguyễn Đình Chiểu.
Ở tuổi 75, nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân vẫn miệt mài bên chiếc máy tính để làm việc mỗi ngày. Ông luôn mang theo bên người một chiếc máy ghi âm, loại dùng bằng băng cassette, ông có thói quen ghi lại bất cứ buổi làm việc nào với các phóng viên báo, đài... Đón tôi trong con hẻm nhỏ dẫn vào ngôi nhà ở một quận gần trung tâm Sài Gòn, ông đội chiếc mũ kiểu Huế và những tiếng “răng, ni, nớ” rất Huế của ông mang lại cho tôi sự gần gũi để bắt đầu buổi trò chuyện.
Nhà văn ÁNH HƯỜNG (thực hiện)
Ngày 9/6/2014, nhà báo Nguyễn Khoa Bội Lan đã vĩnh biệt chúng ta, hưởng thượng thượng thọ 105 tuổi
Tôi lặng lẽ đi tìm về nhà "O Thương trống” mà trong lòng có cảm giác như một đứa con đi xa lâu ngày trở về với mẹ để được nghe mẹ kể chuyện đời, chuyện nghề.
Có lẽ cho đến nay, ông Lê Văn Kinh là nghệ nhân làng nghề truyền thống lập nhiều kỷ lục nhất VN. Ông đã lập kỷ lục về bộ tranh thêu bài thơ "Cáo tật thị chúng” của Mãn Giác Thiền sư bằng 14 thứ tiếng. Tiếp đó là bộ Tâm kinh Bát Nhã Ba La Mật. Đầu tháng 5-2014 vừa qua, ông tiếp tục xác lập kỷ lục thứ ba, đó là thêu tay hai bài thơ "Tẩu lộ” và "Hoàng hôn” - hai bài thơ trong tập "Nhật ký trong tù” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
VÕ SƠN TRUNG
Con người đó, là nhà văn, nhà văn hóa, nhà từ điển học Đào Đăng Vỹ cực kỳ nổi tiếng ở Huế từ những năm 1940. Ông sinh ngày 1 tháng 2 năm 1908 tại Huế, có tài liệu nói ông mất ngày 7/4/1987 tại California - Mỹ(1).
Cật tre được lựa từ rừng già, xung quanh lồng được chạm trổ tuồng tích như một bức tranh hoàn hảo… Những chiếc lồng chim như một tác phẩm nghệ thuật ấy có giá cả chục triệu đồng.
Nếu còn sống, ngày 28 tháng 2 năm nay, cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn sẽ tròn 75 tuổi. Nhưng ông đã nằm xuống 13 năm rồi, vào một ngày đầu hạ, cái ngày mà cả thế giới có quyền được nói dối và chắc hẳn nhiều người yêu thương ông cũng từng mong đó chỉ là một lời nói đùa…