Thúc Tề - một đời thơ đơn côi

14:45 30/07/2014

ĐOÀN XANH 

Nhà thơ, nhà báo Thúc Tề bị Pháp thủ tiêu khi mới 30 tuổi. Gần 50 năm sau, bí mật được phát lộ, Nhà nước đã truy tặng ông danh hiệu Liệt sĩ với bằng Tổ quốc ghi công.

Di ảnh nhà thơ liệt sĩ Thúc Tề

Quê hương yêu du

Tôi về làng Mỹ Lam trong một sáng mù sương. Cái thứ sương mù này báo hiệu một ngày trúng vụ cá tôm của ngư dân đầm Sam và đầm Chuồn. Những bác nông dân nhiệt tình chỉ đường cho tôi vào làng, đường đến nhà thờ họ Nguyễn, đường đến chợ Sam… Mới nhắc tên nhà thơ Thúc Tề, họ đã ân cần hướng dẫn nhiệt tình. Rõ ràng họ rất tự hào về ông. Từ khi thành phố Huế có một con đường mang tên nhà thơ Thúc Tề, thì ông không còn xa lạ như trước kia.

Đi thăm chợ Sam thấy còn nguyên dáng vẻ chợ làng như xưa. Trông hơi lụp xụp, nhếch nhác nhưng hàng hóa thổ sản địa phương thì khá phong phú. Tấp nập người mua kẻ bán đến từ những làng quê lân cận của các xã Phú Hồ, Phú Mỹ, Thủy Thanh, Thủy Vân, Phú Thuận, Phú Hải… Xưa, tại chợ này thân mẫu của nhà thơ Thúc Tề ngày ngày tảo tần buôn bán. Một tay bà chăm lo kinh tế cho một gia đình “giàu” chữ nhưng lại “nghèo” tiền của. Lúc chưa về làm dâu họ Nguyễn làng Mỹ Lam, bà vốn là tiểu thơ con út của phụ chính đại thần Tôn Thất Thuyết chức cao vọng trọng. Ông có phủ đệ ở làng Vân Thê bên kia sông Như Ý đối diện với làng Mỹ Lam.

Nhà thờ họ Nguyễn Thúc mới được trùng tu


Trong gia phả, Thúc Tề tên thật là Nguyễn Thúc Nhuận, sinh ngày 17/10/1916 ở làng Mỹ Lam (xã Phú Mỹ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế). Xuất thân trong một gia đình nhà Nho yêu nước. Thời đi học, ông là bạn thân của Hàn Mạc Tử, Trần Thanh Mại, Trần Thanh Địch. Tại trường Quốc Học Huế, ông học trên Huy Cận 2 lớp. Đến năm thứ 4 (1935) ông bị đuổi học vì viết báo đả kích người Pháp. Sau đó, ông vào Sài Gòn viết báo (ký bút danh Lãng Tử), rồi làm chủ bút các tuần báo Đông Dương Mai. Ngoài làm báo, ông còn làm thơ, viết văn. Thơ ông được in thành sách khá sớm. Văn thì có tập phóng sự N văn (đã xuất bản) và tập Phù Dung và nhan sc (bản thảo bị thất lạc). Năm 1940, tuần báo Mai bị chính quyền thực dân Pháp đóng cửa, và năm 1941 ông bị buộc phải trở lại Huế. Sớm có tư tưởng yêu nước, chống Pháp, cuộc đời của ông dần chuyển sang một hướng mới vào năm 1941 khi tham gia phong trào Việt Minh và hoạt động tích cực trong “Hi văn hóa cu quc”. Nhà giáo nhân dân, giáo sư Đinh Xuân Lâm nhận xét về tập phóng sự: “N Văn là mt tác phm mang tính hin thc sâu sc v cuc đời làm báo và thân phn người làm báo khi đất nước còn b ngoi bang thng tr. Nhà văn Trần Thanh Địch, bạn của Thúc Tề thời đó nhận xét: “Thúc T là cây bút có ging điu hài hước, đả kích rt sc so. Gii chính quyn, văn ngh, sâu mt hi dân đều rt ngán các bài ký tên Thúc T”.
 

Về lại Huế, ông đã cùng nhà văn Hải Triều xây dựng cơ quan Sở Thông tin truyền thông Trung Bộ, Ty Thông tin tuyên truyền Thừa Thiên. Một lần, trên đường đi công tác, Thúc Tề bị Pháp bí mật bắt rồi thủ tiêu, ở gần ga Truồi, huyện Phú Lộc vào cuối năm 1946, lúc ấy ông mới 30 tuổi. Gần 50 năm sau khi mất tích, qua tài liệu tổng kết của Công an tỉnh Thừa Thiên Huế mới được biết ông đã bị bọn mật thám Pháp bắt giết. Năm 1995, Nhà nước đã truy tặng Thúc Tề danh hiệu Liệt sĩ với bằng Tổ quốc ghi công. Hội Nhà báo Việt Nam cũng truy tặng Huy chương vì sự nghiệp báo chí Việt Nam cho nhà báo, liệt sĩ Thúc Tề.

Thơ như phn người

Thúc Tề làm thơ không nhiều. Trăng mơ là thi phẩm duy nhất được in trên Hà Nội báo năm 1938, sau đó được Hoài Thanh tuyển đưa vào Thi nhân Việt Nam. Nếu Thúc tề không hy sinh vì giặc Pháp thì tác phẩm của ông chắc không chỉ có vậy? Khi Trăng mơ được Hoài Thanh chọn đưa vào Thi nhân Việt Nam, nhà phê bình văn học đã viết: “Ngâm đi ngâm li hoài, c ly hn tôi để hiu hn người, mi bài thơ hay là mi cánh ca m cho tôi đi vào mt tâm hn”.

Mt đêm m lnh ánh gương phai
Sut gii sông Hương nước th dài
Xào xc sóng bun khuơ bãi sy
Bp bnh bên mn chiếc thuyn ai

Đối với người đọc, cảm thụ Trăng mơ trước hết là một thi phẩm đẹp, lãng mạn, quyến rũ lòng người. Đó là cánh cửa nhà thơ hé mở để chúng ta đi vào cái man mác buồn của đất trời kinh thành ly loạn, mà cũng là của lòng người.

Mây xám xây thành trên núi Bc
Nhc mm chi vi gia sương êm
Trăng m mơ ng lim dim gt
o l nm trên ngn trúc mm

Khổ thơ tiếp theo cũng là không gian và thời gian ấy, nhưng tựu trung vẫn giữ nét buồn của bức tranh thiên nhiên. Tạo nên cảm quan mỹ học của chủ nghĩa lãng mạn mà chủ thể sáng tạo lấy đó làm cảm hứng.

Nhp cu Bch H my bóng ma
Biến mt vì nghe gic tiếng gà
Trăng tnh gic mơ, lười biếng dy
Động lòng l liu, git sương sa

Trong thơ tràn ngập âm thanh, màu sắc của thiên nhiên tương ứng cùng một thế giới đêm huyền ảo.

Lai láng nim trăng tuôn d nước
Ngp tràn sông trng gn bâng khuâng
H
ương trăng qun quýt hơi sương ướt
Ngân di li tình điu hát xuân

Không ai khác, Hoài Thanh trong Thi nhân Vit Nam đã nhận xét rất cô đọng mà lột tả được cái thần của Trăng mơ: “Tôi yêu bài Trăng mơ ca Thúc T. M bài ra, hn thi nhân kéo mình lê thê trên trang giy, chán nn, u oi. Có l đã nhp vào cái trăng kia, “o l” khi nm mơ, “lười biếng” khi thc dy. Nhưng khi đã tnh, nó mi linh động làm sao! Nó uyn chuyn như mt người đẹp. Cái mt mi ca Dương Quý Phi vi cái nh nhàng ca Phi Yến”.

Đ.X  
(SDB13/06-14)







 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • VÕ QUÊLTS: Hoạ sĩ Dương Đình Sang, sinh năm 1950 tại Huế, nguyên giảng viên Đại Học Nghệ thuật Huế, hội viên Hội Mỹ thuật Việt Nam, hội viên Hội Liên Hiệp VHNT TT.Huế, mất ngày 18 tháng 10 năm 2005.Dù trái tim hoạ sĩ đã ngừng đập nhưng tình yêu và khát vọng Cái Đẹp vẫn còn sáng mãi trong sự nghiệp sáng tạo của ông.

  • LTS: Nhà thơ Trần Hữu Tâm Phương, sinh năm 1949 tại Huế, hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, mất ngày 21 tháng 10 năm 2005. Bài viết sau đây của Hạnh Lê sẽ giúp bạn đọc hiểu thêm về nhà thơ Trần Hữu Tâm Phương.

  • BÙI MINH ĐỨC...Vua Minh Mạng (1791-1841) lúc sinh thời đã có đến 43 bà phi tần nhưng người vợ đầu tiên của vua là bà Hồ Thị Hoa (1791-1807). Bà nầy là một người hiếu đức hiền thục và cũng là con của một công thần nên Bà đã được Vua Gia Long và Thuận Thiên Hoàng Hậu tuyển chọn đưa vào cung Tiềm để hầu hạ cho Hoàng tử con mình...

  • TRẦN HOÀNGThật là thú vị khi được đọc bài “Như thế nào thì được gọi là người Huế?” của nhà văn Nguyễn Khắc Phê (Sông Hương số 187 tháng 9/2004) và bài “Người Huế, anh là ai?” của nhà giáo – dịch giả Bửu Ý (Sông Hương số 188 tháng 10/2004). Hai anh Nguyễn Khắc Phê, Bửu Ý, người quê xứ Nghệ, người gốc xứ Huế, trong bài viết của mình, dù cách viết, cách kiến giải có khác nhau, nhưng đều tập trung bàn luận, “xác định tính cách Huế, đặc tính người Huế”.

  • DUY PHITriều Nguyễn có nhiều nhà thơ lớn. Có một tác giả thơ xuất sắc thời ấy, song trên một trăm năm qua còn ít người biết đến, đó là Hoàng Văn Hoè (1848-?).Ông hiệu Cổ Lâm, quê gốc làng Phù Lưu, Tiên Sơn, Bắc Ninh, vốn thông minh từ nhỏ, bảy tuổi đã đọc Hán thư, có tài thơ văn, ông đỗ tiến sĩ năm Tự Đức thứ 33 (1880), năm sau lại đậu khoa Yêm bác - chuyên về văn chương. Ông làm quan đến Thị độc, sau ra làm tri phủ Kiến Xương, Thái Bình.Cuộc đời của Hoàng Văn Hoè là một bài ca đầy bi tráng.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNTố Hữu không những là một nhà thơ mà còn là một lãnh tụ chính trị được cán bộ và chiến sĩ rất trọng vọng. Nhiều lúc tôi có cảm giác trong tình cảm cán bộ: sau Bác Hồ là đến “Anh Tố Hữu”. Nghe thơ không những người ta tìm cái hay của thơ mà còn tìm ý kiến chỉ đạo cách mạng của ông Tố Hữu trong thơ nữa.

  • NGUYỄN TỐNGNguyễn Khoa Điềm khẳng định chân lí bằng một trực cảm thiên tài để lí giải một cách cụ thể sinh động về sự khởi nguyên và phát triển của đất nước qua hình tượng miếng trầu, cây tre. Những hình tượng bình thường quen thuộc trong đời sống của nhân dân Việt Nam, nhưng mãi cho đến khi Nguyễn Khoa Điềm phát biểu, cái chân lí ngỡ là hiển nhiên đấy, người đọc lắng lại một khoảnh khắc, sau đó ngớ ra bao điều thú vị...

  • NGUYỄN THỤY KHAĐàn ngựa cuồng phong lồng về Hà Nội một đợt mưa rét lạnh. Gió thổi mạnh vào khuya khiến lòng người chợt trắc ẩn, thao thức. Có cảm giác như phía Phủ Doãn có một người đang đi trong "Gió nghiêng chiều say, gió lay ngàn cây, gió nâng thuyền mây, gió reo sầu miên, gió đau niềm riêng, gió than triền miên". Ngỡ như ai đó huýt gió giai điệu "Đêm đông" trên đường đêm nơi ngày nào Nguyễn Văn Thương bắt đầu cảm hứng cho tình ca nổi tiếng ấy. Một thoáng mong nhớ về người nhạc sĩ tài năng này.

  • NGÔ KHAPháo đài Láng đi vào lịch sử kháng chiến của thủ đô Hà Nội và của dân tộc ta như một sự tích anh hùng. Khai hỏa loạt đạn đầu tiên bắn vào thành Hà Nội, mở màn cuộc kháng chiến toàn quốc chống xâm lược.

  • LÂM QUANG MINHSau bao nhiêu sự kiện và bộn bề công việc cuốn hút anh em Thanh niên tiền tuyến chúng tôi trong những ngày lịch sử sôi sục khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Thừa Thiên - Huế, có một câu chuyện mà suốt 60 năm qua tôi chưa có dịp nào chia sẻ và kể lại cho anh em bè bạn nghe. Đó là cuộc gặp gỡ tình cờ và câu chuyện trao đổi ngắn ngủi giữa hai công dân - một bên là tôi, một bên là công dân Vĩnh Thuỵ - ngay sau ngày lễ thoái vị ngôi vua hôm trước.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ(Nhân kỷ niệm 140 năm sinh cụ Phan Bội Châu 26/12/1867-26/12/2007)                            1. Sau phiên toà đại hình mở tại Hà Nội ngày 23/11/1925 kết án khổ sai chung thân cụ Phan Bội Châu, trước sức ép của dư luận trong nước và quốc tế, toàn quyền Pháp Varenne buộc phải ra lệnh “ân xá” và đưa Cụ về “an trí” tại Huế.

  • TRƯƠNG THỊ CÚC * Như cá lội tung tăng trong nước, không hề biết mình bơi bằng cách nào, đôi lúc người Huế cũng sống hồn nhiên, không cảm nhận một cách rạch ròi về tính cách Huế, về yếu tính của một vùng đất mà mình đã sinh ra, lớn lên và một đời gắn bó máu thịt.

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONGLTS: Tháng Mười, tháng kỷ niệm 72 năm ngày thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (20.10.1930 – 20.10.2002), Sông Hương giới thiệu với bạn đọc một khuôn mặt phụ nữ Huế nổi danh từ đầu thế kỷ XX, người từng được cụ Phan Bội Châu cho lập miếu thờ và gọi là Ấu Triệu.

  • BỬU NAMBửu Chỉ là một cái tên không xa lạ với những ai ở miền Nam trước 1975. Anh là người hầu như duy nhất vẽ tranh về đề tài chiến tranh và hoà bình.Tên tuổi và tranh bằng bút sắt, mực đen của anh đã sóng đôi cùng với những ca khúc phản chiến và khát vọng hoà bình của cố nhạc sĩ tài hoa Trịnh Công Sơn - một người con yêu của xứ Huế đã làm rạng rỡ vùng đất đã sinh ra mình.

  • TÔN NỮ HỶ KHƯƠNG(Trích tham luận trong Hội thảo kỷ niệm 120 năm ngày sinh Ưng Bình Thúc Giạ Thị tổ chức tại Huế)

  • TRỊNH CÔNG SƠNTrong những năm chiến tranh ác liệt nhất ở miền Nam, nếu ở địa hạt âm nhạc tôi viết những ca khúc phản chiến và khát vọng hòa bình thì ở phía hội họa, họa sĩ Bửu Chỉ gần như là người duy nhất vẽ rất nhiều về đề tài chiến tranh và hòa bình. Anh nổi tiếng vào thời ấy với những tranh nhỏ trên giấy vẽ bằng bút sắt với mực đen. Tranh anh được in trên các tạp chí nước ngoài và gây được một dư luận rộng rãi.

  • HỒ THẾ HÀLTS: Để ghi nhận những công lao to lớn của văn nghệ sĩ trong sự nghiệp xây dựng nền văn học nghệ thuật Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta đã dành nhiều giải thưởng cao quý tặng cho những công trình văn học - nghệ thuật xuất sắc của nhiều thế hệ cầm bút: Giải thưởng Hồ Chí Minh và Giải thưởng Nhà nước.

  • THANH THẢOThơ Nguyễn Khoa Điềm say mê trong điềm tĩnh, khi nói những điều cao lớn, thơ ấy vẫn biết cúi nhìn những vật thấp nhỏ, những điều bình thường.

  • TRẦN THANH ĐẠMTrước Hồ Chí Minh, Phan Bội Châu là một nhân cách Việt Nam ưu tú và vĩ đại của thế kỷ XX. Bài này thử nêu lên một vài khía cạnh của nhân cách đó.

  • LTS: Nhân lễ một trăm ngày mất của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, Toà soạn nhận được bài viết của Cư sĩ Lê Quang Thái, giáo viên trường Trung cấp Phật học Thừa Thiên Huế - cung cấp thêm nhiều tư liệu quí về Trịnh Công Sơn và gia đình, theo “Phổ hệ” Qui y Tam Bảo tại chùa Phổ Quang - Huế, nhằm giúp độc giả hiểu thêm về quãng đời niên thiếu của nhạc sĩ tài hoa - người con thân yêu của xứ Huế đã viên thành...Sông Hương trân trọng giới thiệu và xem đây như một nén hương lòng gửi tới hương hồn Nhạc sĩ.