ALBERT LAMORISSE (Pháp)
Albert Lamorisse là một nghệ sĩ đa tài của nước Pháp. Ông vừa viết văn, làm thơ, vừa biên kịch và đạo diễn điện ảnh. Truyện "Quả bóng đỏ" (Le Ballon Rouge) này đã được chính Albert Lamorisse dựng thành phim, rất nhiều người hâm mộ.
Nghệ sĩ Albert Lamorisse với truyện "Quả bóng đỏ" (Le Ballon Rouge) - Ảnh: internet
![]() |
Bìa sách “Le Ballon Rouge” của Albert Lamorisse (NXB Hachette, Paris, 1956) |
Quả bóng đỏ
Thuở ấy có một chú bé tên là Pascal. Chả có anh chị em gì cả, nên chú sống thui thủi cô độc trong nhà rất chi là rầu rỉ rầu ri.
Một hôm, chú đưa về một con mèo hoang, và ít lâu sau, một con chó hoang nhỏ xíu. Nhưng mẹ chú bảo rằng mấy giống vật này quá ư dơ bẩn. Thế là Pascal lại phải lúc thúc một mình một bóng trên sàn nhà bóng loáng.
Rồi một sớm mai, trên đường đi học, chú trông thấy một quả bóng bay màu đỏ rất đẹp bị vướng trên cột đèn. Pascal bèn đặt cặp xuống đất, leo lên gỡ lấy quả bóng rồi chạy ào đến trạm xe buýt.
Nhân viên bán vé am tường luật lệ lắm:
"Không cho lên xe buýt hoặc chó, hoặc hành lý cồng kềnh, hoặc những quả bóng bay".
Ai có chó thì đi bộ.
Ai có hành lý cồng kênh thì đi tắc xi.
Ai có bóng phải buông thả.
Pascal không muốn thả quả bóng. Thế là nhân viên xe buýt rung chuông và chiếc xe buýt lăn bánh không có chú bé.
Trường ở xa. Khi Pascal đến nơi, cổng đã đóng rồi. Đi học muộn mà lại đèo bòng thêm một quả bóng nữa: quả là chuyện chưa ai từng thấy ! Pascal cũng lấy làm áy náy vô cùng.
Chú bé nảy ra ý định gởi quả bóng cho bác gác dan lúc ấy đang quét sàn. Vì đây là lần đầu Pascal đến lớp muộn nên chú không bị phạt. Bãi học, bác gác dan lấy quả bóng đã cất hộ trong lều trả lại cho chú bé.
Trời đổ mưa. Pascal phải cuốc bộ về nhà bởi cái luật lệ khó chịu kia của xe buýt. Chú lại không muốn để quả bóng bị ướt nên xin núp nhờ dưới ô của một cụ già, và cứ thế, "quá giang” hết ô này đến ô khác, chú cùng quả bóng cũng về được đến nhà.
Mẹ của Pascal lo âu lắm lắm. Rốt cục, bà cũng an lòng khi thấy chú bé trở về. Đến lúc biết ra rằng chính quả bóng đã làm con mình trễ nãi, bà đùng đùng nổi giận giật phắt quả bóng, mở cửa sổ và ném bóng ra ngoài.
Bình thường, ta thả một quả bóng thì nó bay biến đi. Song quả bóng của Pascal thì vẫn lởn vởn bên ngoài cửa sổ. Qua khung cửa chớp, Pascal và quả bóng nhìn nhau.
Chú bé ngạc nhiên thấy quả bóng ở lại. Nhưng chả ngạc nhiên lắm đâu. Một người bạn thân có thể làm bất kỳ điều gì cho ta, còn nếu đây là một quả bóng thì tất nhiên đời nào nó bay đi. Pascal se sẻ mở cửa sổ, đón lấy quả bóng và đem nó giấu trong phòng mình.
Mai lại, trước khi đi học, Pascal cẩn thận mở cửa sổ cho bóng ra. Chú dặn dò quả bóng đến với chú khi chú gọi.
Pascal xách cặp, hôn mẹ rồi xuống cầu thang.
Ra ngoài phố, chú kêu lên:
- Bóng ơi ! Bóng à !
Ngay tức khắc, quả bóng bay về phía chú.
Và quả bóng bắt đầu theo Pascal, không hề bị ràng buộc gì cả nhé, cứ như một con chó lẽo đẽo chạy theo chủ vậy. Nhưng, cũng như mấy con chó ấy, quả bóng chả chịu vâng lời lắm đâu. Khi Pascal muốn nắm quả bóng để băng qua đường, nó lại bay vụt lên.
Pascal vờ không thèm lưu tâm đến nó nữa, chú qua đường như chẳng có bóng rồi núp vào một góc phố. Quả bóng lo lắng, vội vội vàng vàng tìm cho ra Pascal.
Đến trạm xe buýt, Pascal căn dặn:
- Bóng này ! Theo tớ cho khéo nhé, coi chừng lạc xe đấy !
Thế là người ta mục kích một hiện tượng vô cùng kỳ lạ diễn ra trên đường phố Paris: có một quả bóng bay chập chờn theo sau một chiếc xe buýt.
Đến trường, ô kìa, quả bóng lại không muốn bị chụp bắt. Vì chuông đã reo và cổng sắp đóng, Pascal buộc phải vào, trong dạ băn khoăn quá đỗi.
Quả bóng bay vượt qua tường và... đến xếp hàng sau lũ trẻ.
Thầy giáo hết sức kinh ngạc khi thấy bỗng dưng xuất hiện tên học trò mới kỳ quái này. Nó cứ khăng khăng muốn vào lớp làm lũ trẻ la ó ầm ĩ khiến ông hiệu trưởng phải đến kiểm tra xem có vụ việc gì xảy ra.
Ông hiệu trưởng thử chụp bắt quả bóng để ném ra cửa. Không được. Ông chụp tay Pascal và lôi chú bé đi. Quả bóng rời khỏi lớp, bay theo.
Không biết xử lý Pascal sao cả, trong khi đang bận công chuyện phải đến tòa đô chính nên ông hiệu trưởng tạm giam chú bé trong văn phòng.
"Quả bóng chết tiệt - ông tự nhủ - sẽ ở lại trước cửa với thằng nhóc".
Nhưng ông nhầm, quả bóng quyết định khác hẳn. Vừa thấy ông hiệu trưởng đút chìa khóa vào túi áo, nó liền bám theo ông ra đường. Dân trong khu phố vốn quen biết ông hiệu trưởng thấy ông đi qua với quả bóng kè kè bên người, họ lắc đầu đàm tiếu:
- Hiệu trưởng hiệu triếc gì mà nghịch ngợm quá, nom chả nghiêm túc chút nào. Một nhà mô phạm ai đời lại nô đùa như trẻ nít !.
Ông hiệu trưởng đáng thương gắng sức chụp bắt quả bóng nhưng toi công, ông đành cam chịu như thế mà đến tòa đô chính. Rồi ông trở về, quả bóng vẫn lì lợm đeo theo. Để tống khứ vật chướng ngại này, ông hiệu trưởng buộc lòng phải phóng thích Pascal và thở phào nhẹ nhõm khi thấy hai của nợ cùng ra đi.
![]() |
Minh họa : Phan Xi Păng |
Trên đường về, Pascal dừng chân trước một bức tranh trưng bày ở hội chợ Ferraille. Một cô bé với một chiếc vòng. Pascal ước ao có một nhỏ bạn như vậy.
Đi một quãng, trông kìa, chú liền gặp một cô bé thực sự bằng xương bằng thịt và giống y hệt trong tranh. Cô ta mặc váy trắng, cầm trên tay một quả bóng bay màu xanh.
Pascal muốn chứng tỏ cho cô bé biết rằng quả bóng của mình kỳ diệu biết dường nào.
Ấy thế mà quả bóng lại không thích bị tóm. Cô bé phá lên cười.
Pascal phát cáu: "Ứ thèm hoài công dạy dỗ cái quân bướng bỉnh này !", chú tự nhủ.
Đúng lúc ấy, một băng bụi đời muốn chiếm đoạt quả bóng. Thấy tai biến sắp xảy ra, quả bóng vội bay ngay đến với Pascal. Chú bé chụp lấy và ù té chạy.
Nhưng những tên bụi đời khác lại xuất hiện án ngữ. Pascal buông thả để quả bóng bay bổng lên không trung. Rồi chú chạy lẫn vào đám bụi đời đang nhìn quả bóng cao bay.
Lên tít đầu cao, Pascal cất tiếng gọi. Quả bóng sà đến bên chú trước sự ngạc nhiên sửng sốt của bọn bụi đời. Bấy giờ, cả hai có thể về nhà một cách ung dung.
Hôm sau là ngày chủ nhật. Trước khi đi lễ, Pascal dặn dò quả bóng hãy ở nhà ngoan ngoãn, chớ làm đổ vỡ các đồ vật và nhất là đừng ra khỏi cửa.
Nhưng quả bóng cứ thích làm những gì mà nó muốn cơ. Khi Pascal cùng mẹ vào giáo đường, vừa ngồi xuống thì quả bóng xuất hiện và đến bên cạnh. Sự hiện diện này quả là chả đúng nơi đúng lúc chút nào. Ai nấy đều dõi mắt theo quả bóng, chẳng còn người nào thiết đọc kinh nghe giảng nữa. Người bảo vệ nhà thờ đuổi cổ chú bé ra. Khổ thật, quả bóng không biết điều gì cả! Pascal lo ơi là lo.
Lo quá hóa... đói bụng. Nhờ còn một ít tiền mẹ cho, Pascal vào cửa hàng mua chiếc bánh ngọt. Đầu tiên, chú dặn dò:
- Bóng này ! Ngoan nhé. Chờ tớ ở đây, chớ có đi đâu một bước đấy.
Quả bóng chỉ bay đến một góc phố để sưởi nắng thôi mà. Nhưng thế cũng đủ xa lắm, nguy lắm rồi, vì băng bụi đời hôm qua đã phát hiện ra nó. Bọn chúng biết ngay rằng đây là thời cơ thuận tiện nhất để chiếm đoạt quả bóng. Chúng kín đáo tìm cách áp sát rồi vụt nhảy lên vồ dính lấy bóng và tẩu thoát ngay.
Ra khỏi cửa hàng, Pascal chẳng còn trông thấy quả bóng đâu nữa. Chú chạy đôn chạy đáo khắp nơi tìm kiếm. Khỉ thật, bóng lại chẳng chịu vâng lời tôi ! Hẳn là bóng đang lang thang dạo phố đây. Pascal gào khản cổ nhưng quả bóng vẫn biệt tăm.
Đám bụi đời buộc quả bóng vào một sợi dây thừng to và thử huấn luyện.
- Bọn ta sẽ đem quả bóng thần này đến biểu diễn ở các buổi chợ phiên.
Tay đại ca nói thế. Rồi y xách gậy hù quả bóng:
- Đến đây lẹ lên, kẻo tao nện toác mày ra giờ !
May thay, Pascal đã trông thấy quả bóng đang tuyệt vọng kéo sợi dây thừng phía sau một bờ tường. Pascal cất tiếng gọi. Nghe thấy tiếng chủ, bóng liền bay ngay về phía chú. Pascal gỡ bóng ra khỏi dây thừng và cùng nó chạy trốn.
Đám bụi đời tức tốc rượt theo. Chúng hò hét vang động cả khu phố, cứ như Pascal cướp bóng của chúng không bằng.
Pascal ba chân bốn cẳng chạy. Chú thầm nhủ: "Lẫn vào đám đông ắt sẽ thoát !". Khốn thay, quả bóng đỏ rực rỡ quá, thậm chí từ xa cũng thấy rõ nữa là. Nhằm phân tán đám bụi đời, Pascal lách vào nhiều ngõ hẻm mà chú rành đường thuộc lối.
Phút sau, lũ bụi đời bị sễnh con mồi. Chúng không tài nào biết Pascal rẽ sang phải hay quẹo qua trái, bèn bàn nhau chia thành từng tốp nhỏ để lùng sục.
Trong giây lát, Pascal ngỡ mình cùng quả bóng đã tai qua nạn khỏi bèn tìm một chỗ khuất để nghỉ mệt. Thình lình, ở một góc đường, chú chạm trán một tên bụi đời. Pascal quay ngoắt lại. Từ đầu đường, những tên vô lại khác ào ạt kéo đến.
Chú phóng vào con hẻm trước mặt và dông tuốt ra một khoảnh đất hoang. Đến đây, chú tin rằng mình thực sự thoát nạn.
Chưa đâu ! Đám bụi đời đột ngột hiện ra bốn chung quanh:
Pascal đã bị bao vây.
Chú liền thả quả bóng. Song lần này, thay vì rượt theo quả bóng, bọn vô lại lại tấn công Pascal. Quả bóng đã bay khá xa, nhưng khi thấy bạn mình đang đánh nhau, nó bèn bay trở lại nơi xô xát. Bọn bụi đời chuyển sang ném đá vào quả bóng.
Pascal thét lên:
- Bay đi, bóng ! Bay đi !
Nhưng quả bóng không thể đành lòng bỏ rơi bè bạn đang bị người khác hành hung. Thế là một hòn đá tương vỡ quả bóng.
Trong khi Pascal khóc lóc thảm thiết trước cái chết của quả bóng thân yêu, một sự kiện vô tiền khoáng hậu đã xảy ra:
Từ mọi chốn, người ta thấy không biết cơ man nào là bóng với bóng bay đến rồi nối nhau thành hàng hàng lớp lớp trên không trung.
Ấy là cuộc nổi loạn vĩ đại của những quả bóng bay.
Tất cả quả bóng thảy đều đáp xuống chỗ Pascal, nhảy múa quanh Pascal, giây nhợ quấn bện vào nhau rồi kéo chú bé lên trời.
Và cuộc du hành vĩ đại vòng quanh trái đất của Pascal bắt đầu.
Phanxipăng dịch
(từ bản Pháp ngữ "Le Ballon Rouge")
(TCSH48/03&4-1992)
DƯƠNG UÝ NHIÊN (Trung Quốc)Tôi không thể thay đổi được thói quen gần gũi với cô ấy nên đành trốn chạy ra nước ngoài. Tôi đã gặp được em. Khi đăng tác phẩm “Không thể chia lìa” trên một tạp chí xa tít tắp và dùng bút danh, tôi cho rằng mình không một chút sơ hở. Tôi nhận tiền nhuận bút và mua hai chai rượu quý nồng độ cao trên đường trở về. Tôi muốn nói với em điều gì đó nhân kỷ niệm ngày cưới.
S. MROZEK (Ba Lan)Tại thủ đô của một vương quốc nọ có một viện bảo tàng, trong đó có khu trưng bày về nền nghệ thuật phương Đông. Trong vô số các hiện vật trưng bày tại khu này có nhiều báu vật cực hiếm, giá trị văn hoá và giá trị bằng tiền của chúng vô cùng lớn. Trong số các vật hiếm này có một báu vật đầu bảng, bởi đó là bản duy nhất thuộc loại đó và cũng là bản duy nhất trên toàn cầu. Vì là hiện vật cực hiếm nên giá trị văn hoá của nó là độc nhất vô nhị, còn giá trị bằng tiền thời không tính xuể.
WILLIAM SAROYAN (Mỹ)Cả thế giới muốn tôi làm một chầu hớt tóc. Cái đầu tôi thì quá bự cho thế giới. Quá nhiều tóc đen, thế giới nói thế. Mọi người đều nói, khi nào thì mày định đi làm một chầu hớt tóc vậy hả nhóc kia?
SOMERSET MAUGHAM (ANH)Trang trại nằm giữa thung lũng, giữa những mỏm đồi ở Sômôsetsi. Ngôi nhà xây bằng đá theo mốt cũ được bao bọc bởi những kho củi, sân nhốt súc vật và những công trình bằng gỗ khác. Thời điểm xây dựng được chạm trổ trên cổng bằng những chữ số cổ đẹp đẽ: 1673.
SORBON (Tajikistan)Sorbon sinh năm 1940 tại làng Amondar trong một gia đình nông dân thuộc tập đoàn sản xuất nông nghiệp. Năm 1963 ông tốt nghiệp Đại học Lenin của Tajikistan với bằng tiến sĩ ngôn ngữ học. Các tác phẩm của Sorbon xuất hiện lần đầu vào năm 1965. Tuyển tập truyện ngắn đầu tiên của ông “Không phải tất cả đã được nói ra” xuất bản năm 1969. Nhiều truyện ngắn của ông mau chóng được thu thập lại, trong đó có truyện “Ngày đầu tiên đến trường” nói về một phụ nữ Tajikistan trong Thế chiến thứ Hai, “Sự phòng thủ của đá” và “Người du mục” nói về sự thiết lập chính quyền Xô Viết tại ngôi làng ven sông Zeravshan, và “Áo khoác đồ sộ” nói về một cậu bé bị mất cha trong chiến tranh. Sorbon là nhà văn có tiếng tăm lớn của nền văn xuôi Tajikistan ở thập niên bảy mươi. Truyện ngắn “Người đánh bẫy chim” được viết năm 1974.
MISHIMA YUKIO (Nhật Bản)Nhà văn Nhật Bản Mishima Yukio (1925 - 1970) bắt đầu in các tác phẩm của mình từ những năm 20 tuổi. Ông được tặng nhiều giải thưởng văn học và ba lần được đề cử vào giải Nobel văn chương.
PAUXTÔPXKIChúng ta yêu mến thứ ánh sáng bảo hiểm của những ngọn hải đăng nhưng ít khi nhìn thẳng vào nó. Thường chỉ có những người bảo vệ và các tay lái tàu dán mắt vào hải đăng để kiểm tra bí mật độ loé sáng của nó. Bởi vì tất cả hải đăng trên biển đều nháy và nhấp nhánh khác nhau, theo những tín hiệu đó, người ta có thể biết được hải đăng nào và con tàu đang ở đâu.
SLAWOMIR MROZEK (Ba Lan)(Lê Bá Thự dịch từ nguyên bản tiếng Ba Lan)
ALPHONSE DAUDETSự kiện phản ánh trong truyện xảy ra năm 1871, thời kỳ chiến tranh Pháp - Phổ, khi quân đội Phổ (Đức) đã chiếm đóng và sáp nhập hai tỉnh Alsace và Lorraine của Pháp vào lãnh thổ Đức.
DOMINIQUE DE VILLEPINTác giả Dominique de Villepin, sinh năm 1953, đương kim Bộ trưởng Ngoại giao Pháp, là người phát ngôn cho chính sách hòa bình đối lập với đường lối chiến tranh Bush-Blair trong vụ tập kích Irak đầu năm 2003. Nơi đầu sóng ngọn gió của bang giao quốc tế, ông đã đồng thời cho xuất bản một khảo luận về Thơ, Ngợi ca những Người Cướp Lửa, tượng trưng cho Người Làm Thơ, qua hình ảnh mượn của Arthur Rimbaud, lấy từ huyền thoại Prométhée.
MARK TWAINTwain, Mark, (Samuel Langhorne Clemens), nhà văn Mỹ, (1835-1910). Sinh tại Florida, bang Missouri. Là con thứ tư trong một gia đình thương nhân nghèo. Chưa đầy 12 tuổi, Clemens đã phải thôi học để học nghề sắp chữ in, rồi làm đủ nghề. Năm 1853, bị thôi thúc bởi ý muốn tìm hiểu thế giới, lên đường đi nhiều nơi, làm thợ in công nhật ở St. Louis, New York và Philadelphia. Đến sông Mississipi, hành trình dự kiến đi Brazil bị đình lại vì Clemens lại mơ ước trở thành hoa tiêu trên sông.
HARUKI MURAKAMI (Nhật Bản)Chàng và nàng đang đi trên một con đường. Dọc bãi tha ma. Lúc nửa đêm. Sương mờ vây phủ. Họ tuyệt nhiên không định đi ở nơi chốn này vào lúc này. Nhưng vì các nguyên do khác nhau họ đã buộc phải đi. Họ bước vội vàng, nắm chặt tay nhau.
GRAHAM GREENE (Anh)Có tám người đàn ông Nhật đang ăn bữa tối ở nhà hàng cá nổi tiếng Bentley's. Họ chỉ trao đổi với nhau dăm ba câu bằng thứ tiếng mẹ đẻ khó hiểu của họ, nhưng luôn có nụ cười nhã nhặn và thường mỗi câu lại kèm một cử chỉ cúi đầu lịch thiệp. Tất cả tám người, trừ có một, đều đeo kính. Thỉnh thoảng cô gái xinh đẹp ngồi phía cửa sổ lại đưa một cái nhìn lướt qua họ, nhưng xem ra chuyện của cô ta quá quan trọng, khiến cô ta không thể thực sự chú ý tới bất kỳ ai trên đời ngoài chính mình và người ngồi cùng bàn.
VICTORIA CHIE (ÚC)Cảm giác xấu hổ như kẻ đang làm điều mờ ám, Anne Peterson đặt bút run run ghi tên mình vào phần trống trong bản tự giới thiệu của văn phòng môi giới hôn nhân. Chẳng lẽ lại đến nông nổi này sao? 49 tuổi, trông còn rất trẻ, duyên dáng, đầy sức sống, thành đạt, vật chất đầy đủ, đã ly dị, thế mà phải nhờ môi giới kiếm cho một tấm chồng. Mà anh ta là ai, cũng là một kẻ nào đấy tìm đến đây với những dòng tự giới thiệu cứng nhắc. Thôi, đành vậy chứ biết sao, chỉ vì quá yêu con gái Cindy mà Anne đã phải chịu đựng nỗi trống trải cô đơn ròng rã suốt bao năm trời.
NGÔ KIM LƯƠNG (Trung Quốc)"Nếu còn gặp người, nhất định phải nói", Trần Tĩnh đang nghĩ, ngước mắt lên nhìn ánh đèn vàng vọt trong ngõ nhỏ. Đêm khuya rồi, khắp nơi là hình ảnh kỳ quái của một màn đêm đen kịt. "Ai cha! Chiếc xe đạp xui xẻo này!" - Cô đẩy chiếc xe, không biết phải nói thế nào.Sau lưng vang lên một hồi chuông xe đạp, Trần Tĩnh "ai cha" một tiếng, chàng trai cưỡi xe đạp đã lướt vèo qua rồi.
S.MROZEKCó một lần tôi đi du lịch.Vì không có tàu trực tiếp đến nơi tôi cần tới nên tôi phải xuống một ga dọc đường để chuyển sang tàu khác.Hôm đó là một buổi tối. Mãi sáng hôm sau con tàu tiếp theo tôi sẽ phải đi mới đến.Tôi rời nhà ga, vào thị trấn để kiếm nơi ở trọ.
JOYCE BEGG (Úc)Bà Firbank trở thành hàng xóm của chúng tôi đã lâu, dễ đến sáu bảy năm nay, nhưng thật sự trong chúng tôi chẳng ai dám khẳng định mình biết rõ về người đàn bà này. Xung quanh bà ta lúc nào cũng bao phủ một bầu không khí bí hiểm, ma quái, ngay cả toà dinh thự cổ của bà ta cũng gợi cho người ta cái vẻ rờn rợn, lạnh lẽo giống như nơi trú ẩn của những linh hồn cõi âm.
KRISHNAN VARMAKrishnan Varma sinh ở Kerala, Ấn Độ. Ông viết bằng hai thứ tiếng Anh và Malayalam. Trong nhiều tác phẩm của mình, ông chia sẻ sự quan sát đối với cuộc sống của lớp người cùng khổ trên đất nước ông.
ARTURO VIVANTELời giới thiệu: Nhà văn Arturo Vivante sinh năm 1923 ở Rome, tốt nghiệp cử nhân đại học McGill, Canada, 1945, tốt nghiệp y khoa đại học Rome, 1949. Ông hành nghề bác sĩ toàn khoa, đồng thời sinh hoạt và nghiên cứu về văn chương ở một số trường đại học Mỹ. Vivante là nhà văn rất nổi tiếng với các truyện cực ngắn và các giai thoại.
KÔNXTANTIN PAUXTÔPXKI Mùa Thu. Những hạt sương mai tháng Chín lạnh giá, mọng nước rơi tung tóe từ những tán lá trên cao xuống và bắn cả vào người tôi. Sương từ các nhành cây nhỏ giọt xuống mặt nước sông đen thẫm, tạo thành những vòng tròn và chậm rãi lan ra xung quanh.