Quả bóng đỏ

14:37 16/04/2021

ALBERT LAMORISSE (Pháp)

Albert Lamorisse là một nghệ sĩ đa tài của nước Pháp. Ông vừa viết văn, làm thơ, vừa biên kịch và đạo diễn điện ảnh. Truyện "Quả bóng đỏ" (Le Ballon Rouge) này đã được chính Albert Lamorisse dựng thành phim, rất nhiều người hâm mộ.

Nghệ sĩ Albert Lamorisse với truyện "Quả bóng đỏ" (Le Ballon Rouge) - Ảnh: internet

Bìa sách “Le Ballon Rouge” của Albert Lamorisse (NXB Hachette, Paris, 1956)


Quả bóng đỏ
 

Thuở ấy có một chú bé tên là Pascal. Chả có anh chị em gì cả, nên chú sống thui thủi cô độc trong nhà rất chi là rầu rỉ rầu ri.

Một hôm, chú đưa về một con mèo hoang, và ít lâu sau, một con chó hoang nhỏ xíu. Nhưng mẹ chú bảo rằng mấy giống vật này quá ư dơ bẩn. Thế là Pascal lại phải lúc thúc một mình một bóng trên sàn nhà bóng loáng.

Rồi một sớm mai, trên đường đi học, chú trông thấy một quả bóng bay màu đỏ rất đẹp bị vướng trên cột đèn. Pascal bèn đặt cặp xuống đất, leo lên gỡ lấy quả bóng rồi chạy ào đến trạm xe buýt.

Nhân viên bán vé am tường luật lệ lắm:

"Không cho lên xe buýt hoặc chó, hoặc hành lý cồng kềnh, hoặc những quả bóng bay".

Ai có chó thì đi bộ.

Ai có hành lý cồng kênh thì đi tắc xi.

Ai có bóng phải buông thả.

Pascal không muốn thả quả bóng. Thế là nhân viên xe buýt rung chuông và chiếc xe buýt lăn bánh không có chú bé.

Trường ở xa. Khi Pascal đến nơi, cổng đã đóng rồi. Đi học muộn mà lại đèo bòng thêm một quả bóng nữa: quả là chuyện chưa ai từng thấy ! Pascal cũng lấy làm áy náy vô cùng.

Chú bé nảy ra ý định gởi quả bóng cho bác gác dan lúc ấy đang quét sàn. Vì đây là lần đầu Pascal đến lớp muộn nên chú không bị phạt. Bãi học, bác gác dan lấy quả bóng đã cất hộ trong lều trả lại cho chú bé.

Trời đổ mưa. Pascal phải cuốc bộ về nhà bởi cái luật lệ khó chịu kia của xe buýt. Chú lại không muốn để quả bóng bị ướt nên xin núp nhờ dưới ô của một cụ già, và cứ thế, "quá giang” hết ô này đến ô khác, chú cùng quả bóng cũng về được đến nhà.

Mẹ của Pascal lo âu lắm lắm. Rốt cục, bà cũng an lòng khi thấy chú bé trở về. Đến lúc biết ra rằng chính quả bóng đã làm con mình trễ nãi, bà đùng đùng nổi giận giật phắt quả bóng, mở cửa sổ và ném bóng ra ngoài.

Bình thường, ta thả một quả bóng thì nó bay biến đi. Song quả bóng của Pascal thì vẫn lởn vởn bên ngoài cửa sổ. Qua khung cửa chớp, Pascal và quả bóng nhìn nhau.

Chú bé ngạc nhiên thấy quả bóng ở lại. Nhưng chả ngạc nhiên lắm đâu. Một người bạn thân có thể làm bất kỳ điều gì cho ta, còn nếu đây là một quả bóng thì tất nhiên đời nào nó bay đi. Pascal se sẻ mở cửa sổ, đón lấy quả bóng và đem nó giấu trong phòng mình.

Mai lại, trước khi đi học, Pascal cẩn thận mở cửa sổ cho bóng ra. Chú dặn dò quả bóng đến với chú khi chú gọi.

Pascal xách cặp, hôn mẹ rồi xuống cầu thang.

Ra ngoài phố, chú kêu lên:

- Bóng ơi ! Bóng à !

Ngay tức khắc, quả bóng bay về phía chú.

Và quả bóng bắt đầu theo Pascal, không hề bị ràng buộc gì cả nhé, cứ như một con chó lẽo đẽo chạy theo chủ vậy. Nhưng, cũng như mấy con chó ấy, quả bóng chả chịu vâng lời lắm đâu. Khi Pascal muốn nắm quả bóng để băng qua đường, nó lại bay vụt lên.

Pascal vờ không thèm lưu tâm đến nó nữa, chú qua đường như chẳng có bóng rồi núp vào một góc phố. Quả bóng lo lắng, vội vội vàng vàng tìm cho ra Pascal.

Đến trạm xe buýt, Pascal căn dặn:

- Bóng này ! Theo tớ cho khéo nhé, coi chừng lạc xe đấy !

Thế là người ta mục kích một hiện tượng vô cùng kỳ lạ diễn ra trên đường phố Paris: có một quả bóng bay chập chờn theo sau một chiếc xe buýt.

Đến trường, ô kìa, quả bóng lại không muốn bị chụp bắt. Vì chuông đã reo và cổng sắp đóng, Pascal buộc phải vào, trong dạ băn khoăn quá đỗi.

Quả bóng bay vượt qua tường và... đến xếp hàng sau lũ trẻ.

Thầy giáo hết sức kinh ngạc khi thấy bỗng dưng xuất hiện tên học trò mới kỳ quái này. Nó cứ khăng khăng muốn vào lớp làm lũ trẻ la ó ầm ĩ khiến ông hiệu trưởng phải đến kiểm tra xem có vụ việc gì xảy ra.

Ông hiệu trưởng thử chụp bắt quả bóng để ném ra cửa. Không được. Ông chụp tay Pascal và lôi chú bé đi. Quả bóng rời khỏi lớp, bay theo.

Không biết xử lý Pascal sao cả, trong khi đang bận công chuyện phải đến tòa đô chính nên ông hiệu trưởng tạm giam chú bé trong văn phòng.

"Quả bóng chết tiệt - ông tự nhủ - sẽ ở lại trước cửa với thằng nhóc".

Nhưng ông nhầm, quả bóng quyết định khác hẳn. Vừa thấy ông hiệu trưởng đút chìa khóa vào túi áo, nó liền bám theo ông ra đường. Dân trong khu phố vốn quen biết ông hiệu trưởng thấy ông đi qua với quả bóng kè kè bên người, họ lắc đầu đàm tiếu:

- Hiệu trưởng hiệu triếc gì mà nghịch ngợm quá, nom chả nghiêm túc chút nào. Một nhà mô phạm ai đời lại nô đùa như trẻ nít !.

Ông hiệu trưởng đáng thương gắng sức chụp bắt quả bóng nhưng toi công, ông đành cam chịu như thế mà đến tòa đô chính. Rồi ông trở về, quả bóng vẫn lì lợm đeo theo. Để tống khứ vật chướng ngại này, ông hiệu trưởng buộc lòng phải phóng thích Pascal và thở phào nhẹ nhõm khi thấy hai của nợ cùng ra đi.
 

Minh họa : Phan Xi Păng

Trên đường về, Pascal dừng chân trước một bức tranh trưng bày ở hội chợ Ferraille. Một cô bé với một chiếc vòng. Pascal ước ao có một nhỏ bạn như vậy.

Đi một quãng, trông kìa, chú liền gặp một cô bé thực sự bằng xương bằng thịt và giống y hệt trong tranh. Cô ta mặc váy trắng, cầm trên tay một quả bóng bay màu xanh.

Pascal muốn chứng tỏ cho cô bé biết rằng quả bóng của mình kỳ diệu biết dường nào.

Ấy thế mà quả bóng lại không thích bị tóm. Cô bé phá lên cười.

Pascal phát cáu: "Ứ thèm hoài công dạy dỗ cái quân bướng bỉnh này !", chú tự nhủ.

Đúng lúc ấy, một băng bụi đời muốn chiếm đoạt quả bóng. Thấy tai biến sắp xảy ra, quả bóng vội bay ngay đến với Pascal. Chú bé chụp lấy và ù té chạy.

Nhưng những tên bụi đời khác lại xuất hiện án ngữ. Pascal buông thả để quả bóng bay bổng lên không trung. Rồi chú chạy lẫn vào đám bụi đời đang nhìn quả bóng cao bay.

Lên tít đầu cao, Pascal cất tiếng gọi. Quả bóng sà đến bên chú trước sự ngạc nhiên sửng sốt của bọn bụi đời. Bấy giờ, cả hai có thể về nhà một cách ung dung.

Hôm sau là ngày chủ nhật. Trước khi đi lễ, Pascal dặn dò quả bóng hãy ở nhà ngoan ngoãn, chớ làm đổ vỡ các đồ vật và nhất là đừng ra khỏi cửa.

Nhưng quả bóng cứ thích làm những gì mà nó muốn cơ. Khi Pascal cùng mẹ vào giáo đường, vừa ngồi xuống thì quả bóng xuất hiện và đến bên cạnh. Sự hiện diện này quả là chả đúng nơi đúng lúc chút nào. Ai nấy đều dõi mắt theo quả bóng, chẳng còn người nào thiết đọc kinh nghe giảng nữa. Người bảo vệ nhà thờ đuổi cổ chú bé ra. Khổ thật, quả bóng không biết điều gì cả! Pascal lo ơi là lo.

Lo quá hóa... đói bụng. Nhờ còn một ít tiền mẹ cho, Pascal vào cửa hàng mua chiếc bánh ngọt. Đầu tiên, chú dặn dò:

- Bóng này ! Ngoan nhé. Chờ tớ ở đây, chớ có đi đâu một bước đấy.

Quả bóng chỉ bay đến một góc phố để sưởi nắng thôi mà. Nhưng thế cũng đủ xa lắm, nguy lắm rồi, vì băng bụi đời hôm qua đã phát hiện ra nó. Bọn chúng biết ngay rằng đây là thời cơ thuận tiện nhất để chiếm đoạt quả bóng. Chúng kín đáo tìm cách áp sát rồi vụt nhảy lên vồ dính lấy bóng và tẩu thoát ngay.

Ra khỏi cửa hàng, Pascal chẳng còn trông thấy quả bóng đâu nữa. Chú chạy đôn chạy đáo khắp nơi tìm kiếm. Khỉ thật, bóng lại chẳng chịu vâng lời tôi ! Hẳn là bóng đang lang thang dạo phố đây. Pascal gào khản cổ nhưng quả bóng vẫn biệt tăm.

Đám bụi đời buộc quả bóng vào một sợi dây thừng to và thử huấn luyện.

- Bọn ta sẽ đem quả bóng thần này đến biểu diễn ở các buổi chợ phiên.

Tay đại ca nói thế. Rồi y xách gậy hù quả bóng:

- Đến đây lẹ lên, kẻo tao nện toác mày ra giờ !

May thay, Pascal đã trông thấy quả bóng đang tuyệt vọng kéo sợi dây thừng phía sau một bờ tường. Pascal cất tiếng gọi. Nghe thấy tiếng chủ, bóng liền bay ngay về phía chú. Pascal gỡ bóng ra khỏi dây thừng và cùng nó chạy trốn.

Đám bụi đời tức tốc rượt theo. Chúng hò hét vang động cả khu phố, cứ như Pascal cướp bóng của chúng không bằng.

Pascal ba chân bốn cẳng chạy. Chú thầm nhủ: "Lẫn vào đám đông ắt sẽ thoát !". Khốn thay, quả bóng đỏ rực rỡ quá, thậm chí từ xa cũng thấy rõ nữa là. Nhằm phân tán đám bụi đời, Pascal lách vào nhiều ngõ hẻm mà chú rành đường thuộc lối.

Phút sau, lũ bụi đời bị sễnh con mồi. Chúng không tài nào biết Pascal rẽ sang phải hay quẹo qua trái, bèn bàn nhau chia thành từng tốp nhỏ để lùng sục.

Trong giây lát, Pascal ngỡ mình cùng quả bóng đã tai qua nạn khỏi bèn tìm một chỗ khuất để nghỉ mệt. Thình lình, ở một góc đường, chú chạm trán một tên bụi đời. Pascal quay ngoắt lại. Từ đầu đường, những tên vô lại khác ào ạt kéo đến.

Chú phóng vào con hẻm trước mặt và dông tuốt ra một khoảnh đất hoang. Đến đây, chú tin rằng mình thực sự thoát nạn.

Chưa đâu ! Đám bụi đời đột ngột hiện ra bốn chung quanh:

Pascal đã bị bao vây.

Chú liền thả quả bóng. Song lần này, thay vì rượt theo quả bóng, bọn vô lại lại tấn công Pascal. Quả bóng đã bay khá xa, nhưng khi thấy bạn mình đang đánh nhau, nó bèn bay trở lại nơi xô xát. Bọn bụi đời chuyển sang ném đá vào quả bóng.

Pascal thét lên:

- Bay đi, bóng ! Bay đi !

Nhưng quả bóng không thể đành lòng bỏ rơi bè bạn đang bị người khác hành hung. Thế là một hòn đá tương vỡ quả bóng.

Trong khi Pascal khóc lóc thảm thiết trước cái chết của quả bóng thân yêu, một sự kiện vô tiền khoáng hậu đã xảy ra:

Từ mọi chốn, người ta thấy không biết cơ man nào là bóng với bóng bay đến rồi nối nhau thành hàng hàng lớp lớp trên không trung.

Ấy là cuộc nổi loạn vĩ đại của những quả bóng bay.

Tất cả quả bóng thảy đều đáp xuống chỗ Pascal, nhảy múa quanh Pascal, giây nhợ quấn bện vào nhau rồi kéo chú bé lên trời.

Và cuộc du hành vĩ đại vòng quanh trái đất của Pascal bắt đầu.

Phanxipăng dịch
(từ bản Pháp ngữ "Le Ballon Rouge")
(TCSH48/03&4-1992)


 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Paul William Gallico (1897-1976) là một nhà văn, phóng viên thể thao nổi tiếng của Mỹ. Nhiều tác phẩm của ông đã được chuyển thể thành phim truyện, phim truyền hình, có tác phẩm đã đạt giải Oscar. Cha ông người Ý, mẹ người Áo, bản thân ông đã nhiều năm sống ở châu Âu. Là người đa tài và viết khỏe, ông có hàng chục đầu sách: tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch bản phim truyền hình, thể thao. Những tác phẩm nổi tiếng của Gallico là: Ngỗng tuyết, Tình yêu của bảy con búp bê, Cuộc phiên lưu Poseidon.

  • ANTONIO TABUCCHIAntonio Tabucchi (sinh năm 1945) là một trong những nhà văn được đọc nhiều nhất và dịch nhiều nhất hiện nay của Italia, bậc thầy nổi tiếng về truyện ngắn tâm lý.

  • IVAN BUNHINLúc ông ta đội mũ, đi trên phố hay đứng trong toa tàu điện ngầm không thấy rõ mái tóc cắt ngắn hung hung đỏ có những sợi lóng lánh, qua vẻ tươi tỉnh của gương mặt gầy, nhẵn nhụi, thân hình cao xương xương cứng đơ trong chiếc pan- tô không thấm, có thể đoán ông không quá 40. Chỉ cặp mắt xám nhạt luôn chứa một nỗi buồn khô khốc nói lên rằng ông là một người đã nếm trải nhiều trong cuộc đời.

  • LTS: Anatoli Kudraves là một nhà văn Beloruxia tài năng. Phần lớn các tác phẩm của ông thể hiện cuộc sống của những người nông dân, người chủ chân chính, giàu bản sắc riêng và chân thành của chính quê hương mình. Tác giả đã dẫn dắt nhân vật của mình trải qua công việc tập thể hóa nông nghiệp, trải qua những năm tháng khốc liệt của cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại và cả thời kỳ kinh tế đổ nát sau chiến tranh cho đến ngày hôm nay.

  • BỒ TÙNG LINHLang Mỗ quê ở Bành Thành, con nhà học thức. Ngày nhỏ đã được nghe cha nói đến các sách quý và các sách khác trong nước, lại thường được nghe cha luận bàn với các bạn bè của ông về các loại sách và các nhà thơ cổ đại.

  • AZIt NêxinNgày xưa, nhà vua ở một nước nọ có một kho bạc. Nghe đồn rằng trong kho bạc của nhà vua cất giữ một báu vật vô giá duy nhất của nước đó. Mọi người đều tự hào về báu vật mà tổ tiên đã để lại cho họ. “Mặc dầu chúng ta chẳng có gì cả, nhưng tổ tiên đã để cho chúng ta giữ một vật quý”, họ thường tự hào như vậy mà quên đi cảnh túng thiếu của mình.

  • AZIT NÊXIN (1915 - 1995)Một con chó chạy xồng xộc vào tòa báo "Tin tức đô thành”.

  • Nhà văn Mỹ Carson Mc Cullers sinh 1917. Các tác phẩm chính của bà là: Trái tim là kẻ đi săn cô độc (1940), Thành viên của đám cưới (1946), Khúc ballad của quán cà phê buồn (1951), Ngọt như dưa chua và sạch như heo (1954)…

  • Kamala Das tên thật là Kamala Suraiyya, sinh ngày 31.3.1934 tại Punnayurkulam, quận Thrissur, thành phố Kerala, vùng tây nam Ấn Độ. Bà là nhà văn nữ nổi tiếng của Ấn Độ. Bà sáng tác truyện ngắn bằng tiếng Malayalam. Bà sáng tác thơ và tiểu thuyết ngắn bằng tiếng Anh. Bà chủ yếu nổi tiếng trong thể loại truyện ngắn. Trong sự nghiệp sáng tác, bà đã có nhiều giải thưởng văn học, trong số đó là: Asian Poetry Prize, Kent Award for English Writing from Asian Countries, Asan World Prize, Ezhuthachan Award và một số giải thưởng khác nữa. Ngày 31 tháng Năm, 2009, bà mất tại bệnh viện thành phố Pune, Ấn Độ, thọ 75 tuổi.

  • HERTA MULLERHerta Mueller vừa được trao giải Nobel văn học 2009 vì đã mô tả cảnh tượng mất quyền sở hữu bằng một lối thơ cô đọng và một lối văn thẳng thắn. Truyện ngắn này rút từ tập truyện Nadirs (1982) là tác phẩm đầu tay của bà.

  • SHERMAN ALEXIENgay sau khi mất việc ở văn phòng giao dịch của người Anh điêng, Victor mới biết cha anh đã qua đời vì một cơn đau tim ở Phoenix, Arizoan. Đã mấy năm nay Victor không gặp cha, anh chỉ nói chuyện với ông qua điện thoại một hay hai lần gì đó, nhưng đó là một căn bệnh di truyền, có thực và xảy ra đột ngột như xương bị gãy vậy.

  • KOMATSU SAKYOKomatsu Sakyo sinh tại Osaka (Nhật Bản) (28/1/1931). Nhà văn chuyên viết  truyện khoa học giả tưởng nổi tiếng của Nhật Bản. Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Kyoto, chuyên ngành Văn học Italia. Từ năm 1957 là phóng viên đài phát thanh Osaka và viết cho một số báo. Năm 1961 chiến thắng trong cuộc thi truyện ngắn giả tưởng xuất sắc do tạp chí “SF Magasines” tổ chức. Tác phẩm của Komatsu đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới. Có bốn tiểu thuyết đã được dựng thành phim.

  • FRANK R- STOCKTONCách đây năm năm, một sự kiện kì lạ đã xảy đến với tôi. Cái biến cố này làm thay đổi cả cuộc đời tôi, cho nên tôi quyết định viết lại nó. mong rằng nó sẽ là bài học bổ ích cho những người lâm vào tình cảnh giống tôi.

  • MIKHAIN SÔLÔKHỐP                Truyện ngắn Mùa xuân thanh bình đầu tiên đã về lại trên sông Đông sau những năm tháng chiến tranh. Vào cuối tháng Ba, những cơn gió ấm áp cũng đã thổi đến, và chỉ sau hai ngày tuyết cũng đã bắt đầu tan trên đôi bờ sông Đông. Khắp mọi ngả đường việc đi lại cũng vô cùng khó khăn.

  • KAHLIL GIBRANNguồn: A Treasury of Kahlil Gibran (Một kho tàng của Kahlil Gibran), Anthony Rizcallah Ferrris dịch từ tiếng Arập, Martin L. Wolf biên tập, Nxb Citadel Press, New York, HK, 1951.

  • ROBERT ZACKS (ANH)Nhân ngày quốc tế phụ nữ, tôi và anh tôi bàn nhau mua quà tặng mẹ. Đây là lần đầu tiên trong đời chúng tôi thực hiện điều này.

  • GUY DE MAUPASSANTÔng Marrande, người nổi tiếng và lỗi lạc nhất trong các bác sĩ tâm thần, đã mời ba đồng nghiệp cùng bốn nhà bác học nghiên cứu khoa học tự nhiên đến thăm và chứng kiến, trong vòng một giờ đồng hồ, một trong những bệnh nhân tại nhà điều trị do ông lãnh đạo.

  • GUY DE MAUPASSANTGia đình Creightons rất tự hào về cậu con trai của họ, Frank. Khi Frank học đại học xa nhà, họ rất nhớ anh ấy. Nhưng rồi anh ấy gửi thư về, và rồi cuối tuần họ lại được gặp nhau.

  • JAMAICA KINCAIDNhà văn hậu hiện đại Anh J. Kincaid sinh năm 1949. Mười sáu tuổi, bà đến New York làm quản gia và giữ trẻ. Bà tự học là chính. Tuyển tập truyện ngắn đầu tiên của bà: “Giữa dòng sông” (1984) nhận được giải thưởng của viện hàn lâm Văn chương và Nghệ thuật Mỹ; còn các tiểu thuyết “Annie” (1985), “Lucky” (1990) được đánh giá cao.

  • SAM GREENLEE (MỸ)Sam Greenlee sinh tại Chicago, nổi tiếng với thể loại tiểu thuyết.Ông cũng đóng góp nhiều truyện ngắn, bài báo trong “Thế giới da màu” (Black World); và xem như là bộ phận không thể tách rời trong văn nghiệp, bởi ông là nhà văn da màu. Tuy nhiều truyện ngắn của ông vẫn được thể hiện theo lối truyền thống, nghĩa là vào cửa nào ra cửa ấy; nhưng cái cách mở rộng câu chuyện ở giữa truyện, bằng lối kể gần gũi nhiều kinh nghiệm; đã gây được sự thú vị. Đọc “Sonny không buồn” qua bản dịch, dĩ nhiên, khó thấy được cái hay trong lối kể, bởi nếp nghĩ và văn hoá rất khác nhau; nhiều từ-câu-đoạn không tìm được sự tương đương trong tiếng Việt. Cho nên đọc truyện này, chỉ có thể dừng lại ở mức, cùng theo dõi những diễn tiến bên ngoài cũng như sự tưởng tượng bên trong của Sonny về môn bóng rổ, cả hai như một và được kể cùng một lúc.