Quả bóng đỏ

14:37 16/04/2021

ALBERT LAMORISSE (Pháp)

Albert Lamorisse là một nghệ sĩ đa tài của nước Pháp. Ông vừa viết văn, làm thơ, vừa biên kịch và đạo diễn điện ảnh. Truyện "Quả bóng đỏ" (Le Ballon Rouge) này đã được chính Albert Lamorisse dựng thành phim, rất nhiều người hâm mộ.

Nghệ sĩ Albert Lamorisse với truyện "Quả bóng đỏ" (Le Ballon Rouge) - Ảnh: internet

Bìa sách “Le Ballon Rouge” của Albert Lamorisse (NXB Hachette, Paris, 1956)


Quả bóng đỏ
 

Thuở ấy có một chú bé tên là Pascal. Chả có anh chị em gì cả, nên chú sống thui thủi cô độc trong nhà rất chi là rầu rỉ rầu ri.

Một hôm, chú đưa về một con mèo hoang, và ít lâu sau, một con chó hoang nhỏ xíu. Nhưng mẹ chú bảo rằng mấy giống vật này quá ư dơ bẩn. Thế là Pascal lại phải lúc thúc một mình một bóng trên sàn nhà bóng loáng.

Rồi một sớm mai, trên đường đi học, chú trông thấy một quả bóng bay màu đỏ rất đẹp bị vướng trên cột đèn. Pascal bèn đặt cặp xuống đất, leo lên gỡ lấy quả bóng rồi chạy ào đến trạm xe buýt.

Nhân viên bán vé am tường luật lệ lắm:

"Không cho lên xe buýt hoặc chó, hoặc hành lý cồng kềnh, hoặc những quả bóng bay".

Ai có chó thì đi bộ.

Ai có hành lý cồng kênh thì đi tắc xi.

Ai có bóng phải buông thả.

Pascal không muốn thả quả bóng. Thế là nhân viên xe buýt rung chuông và chiếc xe buýt lăn bánh không có chú bé.

Trường ở xa. Khi Pascal đến nơi, cổng đã đóng rồi. Đi học muộn mà lại đèo bòng thêm một quả bóng nữa: quả là chuyện chưa ai từng thấy ! Pascal cũng lấy làm áy náy vô cùng.

Chú bé nảy ra ý định gởi quả bóng cho bác gác dan lúc ấy đang quét sàn. Vì đây là lần đầu Pascal đến lớp muộn nên chú không bị phạt. Bãi học, bác gác dan lấy quả bóng đã cất hộ trong lều trả lại cho chú bé.

Trời đổ mưa. Pascal phải cuốc bộ về nhà bởi cái luật lệ khó chịu kia của xe buýt. Chú lại không muốn để quả bóng bị ướt nên xin núp nhờ dưới ô của một cụ già, và cứ thế, "quá giang” hết ô này đến ô khác, chú cùng quả bóng cũng về được đến nhà.

Mẹ của Pascal lo âu lắm lắm. Rốt cục, bà cũng an lòng khi thấy chú bé trở về. Đến lúc biết ra rằng chính quả bóng đã làm con mình trễ nãi, bà đùng đùng nổi giận giật phắt quả bóng, mở cửa sổ và ném bóng ra ngoài.

Bình thường, ta thả một quả bóng thì nó bay biến đi. Song quả bóng của Pascal thì vẫn lởn vởn bên ngoài cửa sổ. Qua khung cửa chớp, Pascal và quả bóng nhìn nhau.

Chú bé ngạc nhiên thấy quả bóng ở lại. Nhưng chả ngạc nhiên lắm đâu. Một người bạn thân có thể làm bất kỳ điều gì cho ta, còn nếu đây là một quả bóng thì tất nhiên đời nào nó bay đi. Pascal se sẻ mở cửa sổ, đón lấy quả bóng và đem nó giấu trong phòng mình.

Mai lại, trước khi đi học, Pascal cẩn thận mở cửa sổ cho bóng ra. Chú dặn dò quả bóng đến với chú khi chú gọi.

Pascal xách cặp, hôn mẹ rồi xuống cầu thang.

Ra ngoài phố, chú kêu lên:

- Bóng ơi ! Bóng à !

Ngay tức khắc, quả bóng bay về phía chú.

Và quả bóng bắt đầu theo Pascal, không hề bị ràng buộc gì cả nhé, cứ như một con chó lẽo đẽo chạy theo chủ vậy. Nhưng, cũng như mấy con chó ấy, quả bóng chả chịu vâng lời lắm đâu. Khi Pascal muốn nắm quả bóng để băng qua đường, nó lại bay vụt lên.

Pascal vờ không thèm lưu tâm đến nó nữa, chú qua đường như chẳng có bóng rồi núp vào một góc phố. Quả bóng lo lắng, vội vội vàng vàng tìm cho ra Pascal.

Đến trạm xe buýt, Pascal căn dặn:

- Bóng này ! Theo tớ cho khéo nhé, coi chừng lạc xe đấy !

Thế là người ta mục kích một hiện tượng vô cùng kỳ lạ diễn ra trên đường phố Paris: có một quả bóng bay chập chờn theo sau một chiếc xe buýt.

Đến trường, ô kìa, quả bóng lại không muốn bị chụp bắt. Vì chuông đã reo và cổng sắp đóng, Pascal buộc phải vào, trong dạ băn khoăn quá đỗi.

Quả bóng bay vượt qua tường và... đến xếp hàng sau lũ trẻ.

Thầy giáo hết sức kinh ngạc khi thấy bỗng dưng xuất hiện tên học trò mới kỳ quái này. Nó cứ khăng khăng muốn vào lớp làm lũ trẻ la ó ầm ĩ khiến ông hiệu trưởng phải đến kiểm tra xem có vụ việc gì xảy ra.

Ông hiệu trưởng thử chụp bắt quả bóng để ném ra cửa. Không được. Ông chụp tay Pascal và lôi chú bé đi. Quả bóng rời khỏi lớp, bay theo.

Không biết xử lý Pascal sao cả, trong khi đang bận công chuyện phải đến tòa đô chính nên ông hiệu trưởng tạm giam chú bé trong văn phòng.

"Quả bóng chết tiệt - ông tự nhủ - sẽ ở lại trước cửa với thằng nhóc".

Nhưng ông nhầm, quả bóng quyết định khác hẳn. Vừa thấy ông hiệu trưởng đút chìa khóa vào túi áo, nó liền bám theo ông ra đường. Dân trong khu phố vốn quen biết ông hiệu trưởng thấy ông đi qua với quả bóng kè kè bên người, họ lắc đầu đàm tiếu:

- Hiệu trưởng hiệu triếc gì mà nghịch ngợm quá, nom chả nghiêm túc chút nào. Một nhà mô phạm ai đời lại nô đùa như trẻ nít !.

Ông hiệu trưởng đáng thương gắng sức chụp bắt quả bóng nhưng toi công, ông đành cam chịu như thế mà đến tòa đô chính. Rồi ông trở về, quả bóng vẫn lì lợm đeo theo. Để tống khứ vật chướng ngại này, ông hiệu trưởng buộc lòng phải phóng thích Pascal và thở phào nhẹ nhõm khi thấy hai của nợ cùng ra đi.
 

Minh họa : Phan Xi Păng

Trên đường về, Pascal dừng chân trước một bức tranh trưng bày ở hội chợ Ferraille. Một cô bé với một chiếc vòng. Pascal ước ao có một nhỏ bạn như vậy.

Đi một quãng, trông kìa, chú liền gặp một cô bé thực sự bằng xương bằng thịt và giống y hệt trong tranh. Cô ta mặc váy trắng, cầm trên tay một quả bóng bay màu xanh.

Pascal muốn chứng tỏ cho cô bé biết rằng quả bóng của mình kỳ diệu biết dường nào.

Ấy thế mà quả bóng lại không thích bị tóm. Cô bé phá lên cười.

Pascal phát cáu: "Ứ thèm hoài công dạy dỗ cái quân bướng bỉnh này !", chú tự nhủ.

Đúng lúc ấy, một băng bụi đời muốn chiếm đoạt quả bóng. Thấy tai biến sắp xảy ra, quả bóng vội bay ngay đến với Pascal. Chú bé chụp lấy và ù té chạy.

Nhưng những tên bụi đời khác lại xuất hiện án ngữ. Pascal buông thả để quả bóng bay bổng lên không trung. Rồi chú chạy lẫn vào đám bụi đời đang nhìn quả bóng cao bay.

Lên tít đầu cao, Pascal cất tiếng gọi. Quả bóng sà đến bên chú trước sự ngạc nhiên sửng sốt của bọn bụi đời. Bấy giờ, cả hai có thể về nhà một cách ung dung.

Hôm sau là ngày chủ nhật. Trước khi đi lễ, Pascal dặn dò quả bóng hãy ở nhà ngoan ngoãn, chớ làm đổ vỡ các đồ vật và nhất là đừng ra khỏi cửa.

Nhưng quả bóng cứ thích làm những gì mà nó muốn cơ. Khi Pascal cùng mẹ vào giáo đường, vừa ngồi xuống thì quả bóng xuất hiện và đến bên cạnh. Sự hiện diện này quả là chả đúng nơi đúng lúc chút nào. Ai nấy đều dõi mắt theo quả bóng, chẳng còn người nào thiết đọc kinh nghe giảng nữa. Người bảo vệ nhà thờ đuổi cổ chú bé ra. Khổ thật, quả bóng không biết điều gì cả! Pascal lo ơi là lo.

Lo quá hóa... đói bụng. Nhờ còn một ít tiền mẹ cho, Pascal vào cửa hàng mua chiếc bánh ngọt. Đầu tiên, chú dặn dò:

- Bóng này ! Ngoan nhé. Chờ tớ ở đây, chớ có đi đâu một bước đấy.

Quả bóng chỉ bay đến một góc phố để sưởi nắng thôi mà. Nhưng thế cũng đủ xa lắm, nguy lắm rồi, vì băng bụi đời hôm qua đã phát hiện ra nó. Bọn chúng biết ngay rằng đây là thời cơ thuận tiện nhất để chiếm đoạt quả bóng. Chúng kín đáo tìm cách áp sát rồi vụt nhảy lên vồ dính lấy bóng và tẩu thoát ngay.

Ra khỏi cửa hàng, Pascal chẳng còn trông thấy quả bóng đâu nữa. Chú chạy đôn chạy đáo khắp nơi tìm kiếm. Khỉ thật, bóng lại chẳng chịu vâng lời tôi ! Hẳn là bóng đang lang thang dạo phố đây. Pascal gào khản cổ nhưng quả bóng vẫn biệt tăm.

Đám bụi đời buộc quả bóng vào một sợi dây thừng to và thử huấn luyện.

- Bọn ta sẽ đem quả bóng thần này đến biểu diễn ở các buổi chợ phiên.

Tay đại ca nói thế. Rồi y xách gậy hù quả bóng:

- Đến đây lẹ lên, kẻo tao nện toác mày ra giờ !

May thay, Pascal đã trông thấy quả bóng đang tuyệt vọng kéo sợi dây thừng phía sau một bờ tường. Pascal cất tiếng gọi. Nghe thấy tiếng chủ, bóng liền bay ngay về phía chú. Pascal gỡ bóng ra khỏi dây thừng và cùng nó chạy trốn.

Đám bụi đời tức tốc rượt theo. Chúng hò hét vang động cả khu phố, cứ như Pascal cướp bóng của chúng không bằng.

Pascal ba chân bốn cẳng chạy. Chú thầm nhủ: "Lẫn vào đám đông ắt sẽ thoát !". Khốn thay, quả bóng đỏ rực rỡ quá, thậm chí từ xa cũng thấy rõ nữa là. Nhằm phân tán đám bụi đời, Pascal lách vào nhiều ngõ hẻm mà chú rành đường thuộc lối.

Phút sau, lũ bụi đời bị sễnh con mồi. Chúng không tài nào biết Pascal rẽ sang phải hay quẹo qua trái, bèn bàn nhau chia thành từng tốp nhỏ để lùng sục.

Trong giây lát, Pascal ngỡ mình cùng quả bóng đã tai qua nạn khỏi bèn tìm một chỗ khuất để nghỉ mệt. Thình lình, ở một góc đường, chú chạm trán một tên bụi đời. Pascal quay ngoắt lại. Từ đầu đường, những tên vô lại khác ào ạt kéo đến.

Chú phóng vào con hẻm trước mặt và dông tuốt ra một khoảnh đất hoang. Đến đây, chú tin rằng mình thực sự thoát nạn.

Chưa đâu ! Đám bụi đời đột ngột hiện ra bốn chung quanh:

Pascal đã bị bao vây.

Chú liền thả quả bóng. Song lần này, thay vì rượt theo quả bóng, bọn vô lại lại tấn công Pascal. Quả bóng đã bay khá xa, nhưng khi thấy bạn mình đang đánh nhau, nó bèn bay trở lại nơi xô xát. Bọn bụi đời chuyển sang ném đá vào quả bóng.

Pascal thét lên:

- Bay đi, bóng ! Bay đi !

Nhưng quả bóng không thể đành lòng bỏ rơi bè bạn đang bị người khác hành hung. Thế là một hòn đá tương vỡ quả bóng.

Trong khi Pascal khóc lóc thảm thiết trước cái chết của quả bóng thân yêu, một sự kiện vô tiền khoáng hậu đã xảy ra:

Từ mọi chốn, người ta thấy không biết cơ man nào là bóng với bóng bay đến rồi nối nhau thành hàng hàng lớp lớp trên không trung.

Ấy là cuộc nổi loạn vĩ đại của những quả bóng bay.

Tất cả quả bóng thảy đều đáp xuống chỗ Pascal, nhảy múa quanh Pascal, giây nhợ quấn bện vào nhau rồi kéo chú bé lên trời.

Và cuộc du hành vĩ đại vòng quanh trái đất của Pascal bắt đầu.

Phanxipăng dịch
(từ bản Pháp ngữ "Le Ballon Rouge")
(TCSH48/03&4-1992)


 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LTS: Mario Bendetti sinh tại Paso de los Toros (Tacuarembó ) ngày 14 tháng 9 năm 1920. Ông theo học tại trường tiểu học tiếng Đức ở Montevideo và trường trung học Miranda, đã từng làm nhiều nghề như nhân viên bán hàng, tốc kí, kế toán, viên chức nhà nước và phóng viên. Từ năm 1938 đến 1941 ông sống chủ yếu ở Buenos Aires . Năm 1945, khi trở về Montevideo, ông viết bài cho tuần báo nổi tiếng Marcha, qua đó trở thành phóng viên bên cạnh Carlos Quijano và rồi trở thành một thành viên trong ê-kíp của ông này cho tới tận năm 1974 khi tuần báo ngừng xuất bản.Năm 1973, vì lí do chính trị, ông phải rời bỏ tổ quốc,bắt đầu cuộc sống lưu vong kéo dài mười hai năm ở những quốc gia: Ác-hen-ti- na và Tây Ban Nha. Quãng thời gian này đã để lại những dấu ấn vô cùng sâu sắc trong cuộc đời ông cũng như trong văn nghiệp.

  • YUKIO MISHIMA (Nhật Bản)YUKIO MISHIMA tên thật là HIRAOKA KIMITAKE (1925-1970). Sinh tại Tokyo.Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Tokyo . Nhà văn, kịch tác gia, đạo diễn sân khấu và điện ảnh, diễn viên.Năm 16 tuổi đã xuất bản truyện vừa lãng mạn Khu rừng nở hoa. Tiểu thuyết Lời thú tội của chiếc mặt nạ ra năm 1949 đã khẳng định tên tuổi của nhà văn trẻ tài năng và trở thành tác phẩm được đánh giá là kinh điển của nền văn học Nhật Bản.

  • KOMASHU SAKIO (Nhật Bản)Sinh 28/1/1931 tại Osaka (Nhật Bản). Nhà văn chuyên viết truyện khoa học giả tưởng nổi tiếng của Nhật Bản.Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Kyoto , chuyên ngành Văn học Italia.Từ năm 1957 là phóng viên Đài Phát thanh Osaka và viết cho một số các báo. Năm 1961 chiến thắng trong cuộc thi truyện ngắn giả tưởng xuất sắc do tạp chí "SF Magasines" tổ chức.Tác phẩm của Komatsu đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.

  • S. MROZEK (Ba Lan)Có lần tôi bắt gặp một con chó ác bụng đang rượt đuổi một con mèo. Bởi tôi là người yêu động vật nên tôi bèn vớ ngay một cục đá to sụ quẳng vào con chó khiến nó ngã lăn quay, nằm đứ đừ một hồi lâu. Chú mèo nhỏ không nhà, con vật bé xíu nom mệt phờ râu. Không chút do dự - tôi cho nó nương nhờ. Đây quả là một con mèo đẹp mã, lông mịn màng, mắt long lanh. Tôi đem nhốt nó vào trong nhà, đoạn bỏ đi chơi bời trác táng.

  • KITA MORIO (Nhật Bản)Kita Morio (sinh năm 1927) là nhà văn thuộc thế hệ hậu chiến của Nhật Bản. Tốt nghiệp Đại học Y. Năm 1960 được trao giải thưởng mang tên Akutagawa với truyện ngắn Trong bóng tối đêm, cốt truyện xảy ra trong một bệnh viện tâm thần ở Đức thời kì Chiến Tranh Thế Giới thứ II. Nổi tiếng với các tác phẩm giả tưởng khoa học và chống chiến tranh.

  • SINCLAIR LEWISLGT: SINCLAIR LEWIS (1885 - 1951, giải thưởng Nobel 1930)Ông là tiểu thuyết gia, người viết truyện ngắn có tiếng và nhà viết phê bình có uy tín ở Mỹ.

  • BRUNO LESSINGLGT: Bruno Lessing (1870-1940) sinh tại New York, Mỹ. Tên thật của ông là Rudolp Block nhưng ông nổi tiếng với tư cách là nhà văn chuyên viết truyện ngắn dưới bút danh Bruno Lessing. Ông là phóng viên và sau đó là biên tập viên cho nhiều tờ báo. Mô tả của Lessing về cuộc sống của người Do Thái ở New York được đánh giá cao. Truyện dưới đây được dẫn dắt một cách hấp dẫn, lý thú, làm nổi bật mối quan hệ giữa hai thế hệ: cha và con, vấn đề nhập cư, đồng hóa hay giữ bản sắc văn hóa với một giọng điệu dí dỏm.

  • JUAN JOSÉ ARREOLA (Sinh 1918, Nhà văn Mêhicô)LGT: Arreola là một nhà cách tân lớn về truyện kể. Là một người tự học tài năng, ông sở đắc một nền văn hoá rộng lớn, cũng như trải qua nhiều nghề khác nhau để kiếm sống. Arreola chủ yếu sáng tác những truyện kể ngắn, cô đúc, mỉa mai, hay bí ẩn, ưa thích cái nghịch lý và ông là một trong những bậc thầy của hình thức truyện ngắn này. Ba tuyển tập truyện ngắn của ông là Varia Invencion (1049), Confabulario (1952), Confabulario Définitivo (1087).

  • KAWABATA YASUNARI LGT: KAWABATA YASUNARI (1899 - 1972) là nhà văn đầu tiên của Nhật Bản đoạt giải thưởng Nobel văn chương (1968). Ông nổi tiếng thế giới với những tiểu thuyết như: Xứ Tuyết (1935 - 1947), Ngàn cánh hạc (1949), Tiếng rền của núi (1950), Người đẹp say ngủ (1961), Cố đô (1962)...

  • MATVEEVA ANNALGT: MATVEEVA ANNA (Sinh 1975) là một nhà văn nữ trẻ của văn học Nga đương đại tài năng đầy hứa hẹn. Đã xuất bản một số tập truyện ngắn. Truyện ngắn của cô đã được đăng trong các tạp chí lớn của Nga như Thế giới mới, Tháng Mười. Văn xuôi của cô hóm hỉnh, thể hiện sự tò mò sắc sảo trước cuộc sống và con người. Tác phẩm của cô được xem như thể hiện một số sắc thái và đặc điểm của văn xuôi hậu hiện đại Nga hiện nay. Xin trân trọng giới thiệu truyện ngắn “Con chó” dưới đây của nữ văn sĩ qua bản dịch của nữ dịch giả Đào Tuấn Ảnh.

  • YVELINE FÉRAYLTS: Monsieur le paresseux là cuốn tiểu thuyết lịch sử dày gần 300 trang của nữ văn sỹ Pháp Yveline Féray viết về Đại danh y Việt Nam Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, do Nhà xuất bản Robert Laffont ở Paris ấn hành năm 2000. Trước đó, năm 1989 nữ văn sỹ này đã cho xuất bản ở Pháp cuốn tiểu thuyết dày 1000 trang Dix mille printemps, viết về Nguyễn Trãi - nhà chính trị, quân sự lỗi lạc; nhà thơ lớn của Việt Nam ở thế kỷ XV.

  • MARSEL SALIMOV (LB NGA)Đất nước ta quá giàu! Vì thế tôi nảy ra ý định muốn cuỗm một thứ gì đó. Những tên kẻ cắp ngày nay chả giống như trước đây. Chúng không thèm để mắt đến những thứ lặt vặt. Cả một đoàn tàu bỗng dưng biến mất tăm! Những nhà máy không thể di dời được, thế nhưng người ta lại nghĩ ra kế chiếm đoạt chúng. Nghe đồn nay mai người ta sẽ bắt đầu chia chác cả đất lẫn nước!

  • AKILE CAMPANILE(Nhà văn Italia)LTS: Số Tết này, TCSH chọn một truyện ngắn hài hước của một nhà văn Ý, có nhan đề “Ngón nghề kinh doanh”, qua bản dịch của dịch giả nổi tiếng Lê Sơn, để bạn đọc có dịp thư giãn trong dịp đầu Xuân.

  • HERMANN HESSE Tương truyền thi nhân người Tàu tên Han Fook thuở thiếu thời chỉ thao thức với một khát khao kỳ diệu là muốn học hết mọi điều và tự rèn luyện mình đến hoàn hảo trong tất cả các môn liên quan đến nghệ thuật thi ca.

  • OLGA TOKARCZUK (Nữ nhà văn Ba Lan)LGT: Nữ văn sĩ Ba Lan Olga Tokarczuk sinh năm 1962 tại Sulechow, Ba Lan. Bà là nhà văn “hậu hiện đại” và “nữ quyền”. Năm 1979  những truyện ngắn đầu tay của bà được đăng tải trên Tạp chí Thanh niên, năm 1989 những bài thơ đầu tay được in trong các tạp chí “Rađa” và “Đời sống văn học”.

  • NADINE GORDIMER ( Phi), Giải Nobel 1991LGT: Nữ văn sĩ Nadine Gordimer sinh năm 1923 tại Phi. Bà cho in truyện ngắn đầu tay năm 15 tuổi và tiếp tục nghề văn khi còn là sinh viên Đại học Wirwatersrand. Có thời kỳ sách của bà bị chế độ phân biệt chủng tộc Phi cấm đoán. N.Gordimer được trao tặng nhiều giải thưởng văn học, trong đó có giải Nobel văn chương năm 1991.

  • OLGA TOKARCZUKLGT: Trong số tháng 3 – 2007 (217), Sông Hương đã giới thiệu tới bạn đọc truyện ngắn “Người đàn bà xấu nhất hành tinh” của OLGA TOKARCZUK, một nữ văn sĩ thuộc dòng văn học nữ “hậu hiện đại Ba Lan”. Số báo này, Sông Hương xin giới thiệu tiếp truyện ngắn “Vũ nữ”. Đây là một truyện ngắn độc đáo dựa trên một leimotic “cuộc đối thoại vô hình” giữa người con gái và người cha, láy đi láy lại đến 6 lần, thể hiện cuộc chiến đấu âm thầm dữ dội, tự khẳng định mình trong nghệ thuật, chống lại sức mạnh ám ảnh của mặc cảm “bất tài”.

  • BERNARD MALAMUDLGT: Bernard Malamud sinh năm 1914 tại Brooklyn, New York, lớn lên trong thời kỳ Đại Khủng hoảng Kinh tế, là người Nga gốc Do Thái trong một gia đình bán tạp hoá. Ông đã xuất bản nhiều tiểu thuyết, truyện ngắn và được nhận nhiều giải thưởng văn học.

  • RADOI RALIN (Bungari)LGT: Đây là một truyện có ý vị sâu xa với các môtíp sự cám dỗ của quyền lực, “sự đồng loã ngây thơ” với tội ác, sự tự nhận thức và tự trừng phạt. Nhưng trên hết là sự vạch trần và tố cáo sự bịp bợm quỷ kế của giới quyền lực. Đây là một truyện ngụ ngôn mới đặc sắc. Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc.

  • ZACE HAMMERTON (Anh quốc)LGT: Truyện dựng chân dung của một kẻ “Sính khiếu nại” “một cách hài hước, bố của John Peters có “Thú đam mê sưu tập tem”. Cách dẫn chuyện tài tình ở cái chi tiết sự ham mê của anh với một loại tem đặc biệt không đục lỗ chiếu ứng với cái kết bất ngờ của truyện “Có của rơi vào tay mà để vuột mất”. Mời bạn đọc thưởng thức.