Ảnh: Internet
VASSILY SHUKSHIN Nước mắt chim cu Họ đánh xe dọc theo bìa rừng. Xe ngựa lăn bánh trên đường đầy bụi, xóc nẩy trên những rễ cây sần sùi, tiếng loảng xoảng kim loại vang lên từ trục xe. Mặt trời đã xế nhưng vẫn còn nóng. Oi bức. Không khí nặng mùi bụi đất, mùi nhựa cây và mùi dâu tây mọc hoang. Hai người trên xe, một đàn ông và một thiếu phụ. Họ trạc tuổi nhau khoảng chừng ba mươi. Thiếu phụ ngồi đánh xe ở phía trước, trên băng ngang. Người đàn ông nằm đàng sau, trên đống cỏ xanh lục, ngước nhìn bầu trời không mây, phì phèo thuốc lá. Chẳng ai nói lời nào. Thiếu phụ cúi đầu và thỉnh thoảng gõ gõ đầu mút dây cương vào mũi giày ống. Cô đang nghĩ ngợi điều gì. Họ đã đánh xe từ ga được hai giờ. Họ đã chuyện trò về địa phương, về các thứ trên đời và bây giờ thì im lặng. Con ngựa thiến màu hồng lực lưỡng giữ nước kiệu đều, khụt khịt mũi và làm bộ cương rung leng keng. Chốc chốc, thiếu phụ lại ngẩng đầu, uể oải giật cương: - Nhanh nào, mày ngủ đấy à? Con ngựa liếc nhìn đàng sau, tròng mắt màu tím long lên và vểnh đôi tai nhưng chẳng chạy nhanh hơn. Thiếu phụ lại cúi đầu, gõ gõ mút dây cương vào mũi giày. Xe nghiêng lệch, cố chống tay giữ thăng bằng, người hơi ngả về phía sau, trong thùng xe, áo choàng trắng vắt ngang vai. Người đàn ông ngoảnh đầu, chăm chú nhìn thiếu phụ hồi lâu, nhìn chiếc cổ cân đối và những lọn tóc xoăn xoăn nâu nhạt gần đôi tai. Rồi anh lại tiếp tục hút thuốc và ngước nhìn bầu trời. Tiếng hót thánh thót của bầy chim chiền chiện từ trên cao vọng lại. Tiếng rền rĩ khô khan không dứt của lũ châu chấu tràn đầy bầu không khí oi bức. Chung quanh, trong khu rừng và ngoài cánh đồng, mọi vật đều yên ả trong oi bức nặng nề. Người đàn ông ngồi dậy, ném mẩu tàn thuốc xuống đường và châm điếu khác. - Cô nghĩ gì thế? - Anh hỏi. - Chẳng có gì - Thiếu phụ điềm nhiên trả lời, vẫn gõ gõ dây cương vào giày ống. Người đàn ông hất ngược mái tóc hoe vàng xỏa trên vầng trán cao, thanh tú và lần ra ngồi cạnh thiếu phụ. Cô nhìn nghiêng người đàn ông. Mắt cô màu xám, sáng. - Quả là một ngày nóng bức. Ở Xi-bê-ri tôi chưa từng nghĩ đến cái nóng thiêu đốt như ở đây. - Chúng tôi thì thỉnh thoảng - Thiếu phụ đáp. Người đàn ông rít một hơi thuốc thật sâu. Làn khói thuốc xanh mỏng bay lơ lửng trên đầu anh ta rồi tan biến. - Cô đến ga thăm ai đấy? - Không. Chúng tôi đi đón bác sĩ của chúng tôi nhưng cô ấy chưa đến - Thiếu phụ lại quay sang người bạn đồng hành. Người đàn ông vội tránh đôi mắt cô. Lát sau, anh nằm duỗi chân, nói bằng giọng cảm xúc: - Ở đây tuyệt quá. Thích thật! - Phải, tốt thôi - Thiếu phụ đồng tình một cách giản dị và dõi mắt nhìn về phía xa, trên cánh đồng. - Chỉ phải cái hơi buồn, tôi đoán thế. Phải không? - Người đàn ông mỉm cười. - Tùy. Chúng tôi không thấy thế. Mà tại sao chúng tôi phải buồn? - Cô cho rằng cô không bao giờ buồn à? - Người đàn ông vẫn mỉm cười. - Thiếu phụ nhún vai. - Không. - Thật chứ? Thiếu phụ nhìn người bạn đồng hành, thoáng cười khó hiểu rồi lại gõ gõ dây cương vào mũi giày. - Cô có chồng chứ? - Người đàn ông bất ngờ hỏi. Thiếu phụ chớp mắt: - Không. Không có. Mà sao? - Tôi chỉ hỏi thế thôi. Tôi nghĩ là cô không có chồng. Thiếu phụ nheo mắt. Đôi mắt màu xám, sáng của cô trở nên duyên dáng. Đôi môi tươi tràn đầy nữ tính mở hé và hơi trễ xuống ở góc miệng. - Nhưng vì sao anh nghĩ thế? - Tôi không biết. Tôi chỉ đoán thôi. Ly hôn à? - Cứ cho là vậy. - Vì sao? Thiếu phụ ngoảnh mặt đi. Cô không muốn bàn chuyện ấy. - Bởi một lẽ chính đáng - Cô nói. - Hừm!... - Người đàn ông lại hất ngược mái tóc - Đôi khi, chuyện nó như thế đấy. Cả hai cùng im lặng hồi lâu. - Còn bây giờ thì thế nào? - Người đàn ông hỏi. - Thế nào về cái gì? - Cuộc sống chung chung ấy mà. Thiếu phụ cười gượng, không quay về phía người đàn ông: - Thường thường. - Thường thường? Chẳng nói lên được điều gì! - Người đàn ông cười lớn - Thường thường, quả không có nghĩa gì cả. - Ôi trời!... - Thiếu phụ lắc đầu và nhìn thẳng vào mắt người đàn ông. Anh ta ngừng cười… Họ nhìn nhau giây lát. Người đàn ông với vẻ dò tìm, thiếu phụ thì ngỡ ngàng xúc động. Và đột nhiên, cả hai cùng cười vang. Một tia lửa nhỏ ấm áp lóe sáng trong đôi mắt màu xám của thiếu phụ. - Cô cười gì đấy, hả? Nói tôi nghe nào. Cười về chuyện gì? - Người đàn ông hỏi, ngón tay trỏ vào thiếu phụ với nụ cười vui vẻ. - Buột miệng thôi - Thiếu phụ quay mặt đi, dùng khăn tay dụi mắt. Giọng cô lại hoàn toàn nghiêm nghị khi hỏi - Ông đến đây làm gì? Đại diện cơ quan à? - Tôi là họa sĩ - Anh nói - Tôi đến đây để vẽ. Vẽ một vài đề tài ở vùng này. Thiếu phụ nhìn người bạn đồng hành với ánh mắt thích thú. - Sao? - Họa sĩ hỏi. - Chẳng sao cả. Ở câu lạc bộ của chúng tôi cũng có một họa sĩ. - Thế à? - Người họa sĩ không biết nói gì về anh chàng đồng nghiệp của câu lạc bộ nên chỉ gật gù - Ờ, ở đâu chả có họa sĩ. - Ông vẽ gì thế? - Đủ thứ. Cô… Tôi có thể vẽ cô chẳng hạn. Muốn tôi vẽ chứ? Thiếu phụ mỉm cười. - Tôi? Sao lại vẽ tôi? Nhưng ở đây chúng tôi có một vài cảnh rất đẹp. Dòng sông chẳng hạn. Đi lấy nước buổi sáng, đôi lúc, nó đẹp đến nỗi tôi không tài nào rời mắt. Những khi ấy, tôi thầm nghĩ - giá mình có thể vẽ dòng sông nhỉ. - Đã bao giờ thử chưa? - Hứ!.. Ông nên nhìn ngắm dòng sông tận mắt, vào buổi sớm mai ấy. Nói tôi nghe nào, muốn vẽ cần phải học hay chỉ bẩm sinh? - Cả hai.. Phải học nhiều đấy… - Họa sĩ không muốn nói về chuyện vẽ vời. - Dù sao, tôi vẫn muốn biết thêm về cô… Anh nhảy xuống xe và rảo bước bên cạnh, mỉm cười với thiếu phụ. - Sao? Cô sống ra sao trong thiên đường này? - Họa sĩ dang tay, nhìn quanh. Thiếu phụ đáp lại nụ cười mỉm của họa sĩ. - Rất tốt lành. Người đàn ông hít một hơi dài, rẽ sang bên đường, hái mấy nhánh hoa ấm bám đầy bụi rồi đuổi kịp xe ngựa, trao cho thiếu phụ. Cô nhận bó hoa với nụ cười biết ơn. - Người ta gọi hoa này là Nước mắt chim cu - Cô nói và bắt đầu thận trọng kết những cành hoa thành bó nhỏ. - Chim cu không tìm thấy tổ. Vì thế nó kêu khóc mãi. Nước mắt rơi xuống đâu hoa mọc đến đấy. - Cô thích chứ? - Họa sĩ đánh đu vào thành xe. Khi trèo lên, tay anh chạm vào đầu gối thiếu phụ. Anh liếc nhanh cô ta. Thiếu phụ kéo sửa lại tấm váy và tiếp tục xếp những cành hoa. Trong phút chốc, một bức tranh hiện lên trong trí tưởng họa sĩ. Một thiếu phụ đầy sức sống thầm lặng và đẹp đang kết bó hoa nhỏ màu xanh nhợt nhạt, buồn tẻ: hoa Nước mắt chim cu. Nhưng một cảm giác xao động mãnh liệt như sóng trào xâm chiếm anh và bức tranh vụt biến mất. Đột nhiên, mọi thứ đều nhuốm vẻ đắng cay, tạm bợ và tang tóc. - Cuộc sống là cái quái gì nhỉ? - Họa sĩ cao giọng - Nó trôi qua trong thoáng chốc. Và thế đấy! - Anh nhìn thiếu phụ, chờ đợi sự đồng cảm - May ra, chúng ta có thể làm được những gì chúng ta đã khởi sự, hay ít ra cũng cố như thế.. - Anh co người lại, lời lẽ điên cuồng và nông cạn. Quỷ sứ! Cô không hiểu à? Chúng ta làm được đấy. Nhưng làm được những gì nhỉ? Suốt đời, chúng ta phải bóp nghẹt hơi thở của mình và tự nhủ rằng chúng ta là những người tốt bụng đến thế… Nhìn kìa, cánh rừng, thảo nguyên, bầu trời… Tất cả đều làm ta nhói buốt với tất cả say mê. Ôi đẹp quá! Hãy yêu và tình yêu là trên hết. Yêu đi, đó là tất cả! Những gì còn lại đều không đáng kể! - Anh có vẻ như đang tranh luận với ai. Anh vung tay, lớn tiếng sôi nổi. Và đôi mắt anh không rời thiếu phụ. Chờ đợi. Thiếu phụ chăm chú nghe. Cô muốn hiểu. Người đàn ông đặt tay lên cánh tay cô. - Sao cô nhìn tôi như thế? Cô không hiểu à? - Cánh tay người đàn ông lướt nhanh lên bờ vai mềm mại của thiếu phụ, cố ghì về phía mình. Thiếu phụ vùng thoát khỏi, nhìn thẳng vào mắt người đàn ông với vẻ lạnh lùng khiến người ta phải bối rối, như một cái tát vào mặt. Bằng một giọng khác lạ, gay gắt cô nói - Tôi hiểu - và quay đi. Họa sĩ rụt tay lại như gặp phải lửa, mỉm cười lúng túng. - Ô, chúng ta như thế ấy kia à? - Anh đăm đăm lặng nhìn thiếu phụ hồi lâu rồi cáu kỉnh - Chúng ta sống đời sống nhỏ nhoi của mình, rồi chết đi. Thế là thế đấy. Để cho chúng xéo hết đi là xong! - Anh nói tiếp, giọng trầm lặng, giận dữ. Anh co chân lên khỏi xe, ngả người nằm trở lại và úp mặt vào đống cỏ thơm. Xe chạy tiếp một hồi lâu. Hai bánh trước kêu loảng xoảng. Con ngựa hồng khụt khịt mũi. Lũ chim hòa chung tiếng hót trong cánh rừng lúc này tràn ngập ánh nắng cuối ngày. Mặt trời to lớn, rực rỡ đang lặn ở phía bên kia cánh đồng. Thiếu phụ liếc nhanh người bạn đồng hành. Anh vẫn nằm im. Đôi xương vai gầy nhô trên tấm lưng hẹp, dưới mảnh áo lụa đắt tiền. Sợi gân xanh đập dồn dập trên thái dương. - Mấy giờ rồi nhỉ? - Thiếu phụ hỏi. Người đàn ông trở dậy, nhìn thẳng hướng con đường trước mặt, nhỏ nhẹ nói: - Cô hãy… hãy tha lỗi cho tôi. Tất cả những gì tôi vừa nói, nghĩ lại thật ân hận - Anh nhíu mày, nới lỏng cà-vạt, nhìn thiếu phụ. Cô cũng nhìn anh chăm chú như muốn tìm hiểu. - Không sao - Cô nói, khóe môi máy động một nụ cười chế giễu nhưng không hẳn làm mếch lòng anh, nụ cười thân thiện - khu rừng và cánh đồng, chúng đều có ích, phải không? Người đàn ông cũng mỉm cười ngây ngô: - Đúng thế. Chân lý ấy vừa đến với tôi - Anh đưa tay che mặt - Tôi cảm thấy như thể mình vừa ăn vụng bánh mì. - Thôi, đừng để ý chuyện ấy nữa. Đàn ông các anh thật giống nhau nếu cứ để cho lung tung như thế. Họa sĩ lấy thuốc ra hút. Anh đan hai bàn tay dài quanh đôi ống chân mảnh khảnh, nghĩ ngợi mông lung. Anh có vẻ của một người chán chường, cáu gắt bất ngờ. - Tất cả đàn ông à! - Không phải sao? - Chắc chắn là không phải tất cả chúng tôi… Còn phải đi bao xa nữa? - Chừng hai cây số. - Không, không phải tất cả đàn ông.. Cô không nên nói thế. Thiếu phụ không nói gì. Vượt khỏi khu rừng, con đường đưa hai người băng qua cánh đồng. Buổi chiều buông xuống lặng lẽ và một nỗi buồn dịu dàng, trầm ngâm lan trùm mặt đất. Những con cun cút đầu tiên cất tiếng kêu. Người đàn ông hút thuốc, ngắm gương mặt nhìn nghiêng của thiếu phụ. - Cô là một người đàn bà tuyệt vời - Anh nói một cách giản dị và bất ngờ - Tên cô là gì? - Nina. - Nina, cô là một người đàn bà tuyệt vời. - Hứ!... - Thiếu phụ không quay về phía anh. Trong cách ngoảnh mặt đi của cô lộ vẻ bẽn lẽn và hân hoan, một niềm hân hoan thầm lặng, khó quên. - Tôi sẽ vẽ cô. - Ông muốn nói gì đấy? - Nina quay về phía họa sĩ rồi lại ngoảnh đi ngay. - Ấy, vài nét về cô… Bức tranh sẽ được gọi là Nước mắt chim cu. - Trời! - Nina chỉ có thể kêu lên như thế. Họ im lặng hồi lâu. - Ông tên gì? - Nina hỏi. - Xécgây. - Ông sẽ ở lại đâu? - Tôi không biết… - Ông có thể đến nhà tôi. Chỉ có mẹ và tôi. Nhà rộng lắm, nửa căn còn trống và ở ngay cạnh dòng sông. Xécgây không trả lời ngay. - Ấy, cô xem… Cô không bị xúc phạm chứ? - Ôi, bỏ qua đi. Ông biết hổ thẹn là quí lắm rồi - Cô chúi người về phía trước và dùng dây cương quất vào ngựa. Chiếc xe chồm lên, kêu ầm ĩ trên đường. - Nina! - Họa sĩ gọi tên thiếu phụ. - Hả? - Cô không quay lại. - Cô giận à? - Ô, không sao… Quá nhiều phiền toái với đàn ông các anh lắm rồi, hơi sức đâu mà giận. Chúng ta đừng nói chuyện ấy nữa. Làng Bêriôzốpka của chúng tôi kia kìa. Ngôi làng hiện ra lờ mờ trước mặt. Những mái nhà đỏ tía trong tia nắng chói của buổi hoàng hôn như thể đang âm ỉ cháy giữa cánh đồng lúa mới độ chín vàng. - Ông có thể vẽ buổi chiều thế này? - Nina hỏi - Ông xem kìa, thật đáng yêu làm sao! - Phải - Họa sĩ lặng lẽ đáp. Anh ngập ngừng rồi lặp lại - Phải, đáng yêu quá. Và buổi chiều quả là đáng yêu. Vĩnh Quyền dịch từ bản tiếng Anh rút trong tập “I Want to live”, NXB Tiến Bộ, Matxcơva. (7/6-84) |
TOIVO TOOTSEN ( )LGT: Đây là một truyện hài hước thú vị về nạn kẹt xe. Tác giả đã sử dụng một thủ pháp phóng đại đến mức vô lý, không tưởng: một vụ kẹt xe bất tận từ đám cưới đến sinh con, ly dị, tái kết hôn, con vào đại học và kết hôn mà cuộc kẹt xe vẫn chưa kết thúc!. Mượn một tình huống kẹt xe “hoang tưởng” này, nhà văn muốn gởi tới một thông điệp hài hước một cách bi đát: nếu giao thông ở các đô thị lớn không ở các đô thị lớn không được tổ chức một cách khoa học thì từ đời cha đến đời con nạn kẹt xe vẫn chưa được giải quyết. TSCH
JAMES JOYCELGT: James Joyce (1882 - 1941) là một trong những khuôn mặt lớn nhất của văn xuôi Anh - Ailen và châu Âu thế kỷ XX. Ông “là nhân vật trung tâm của văn xuôi hiện đại”, một trong những nhà văn có ảnh hưởng lớn nhất, gây phản ứng mạnh nhất, “một trong những thần tượng của thời đại” đối với văn nghệ sĩ trẻ và giới trí thức châu Âu đương thời.
A THÀNH L.T.S: "Vua cờ" (Kỳ vương) được đăng lần đầu trên tạp chí "Thượng hải văn học" năm 1984. Vừa xuất hiện, "Vua cờ" đã chấn động văn đàn, liên tiếp nhận được nhiều giải thưởng "Trung thiên tiểu thuyết ưu tú" ở cấp tỉnh và trung ương ở Trung Quốc. Tác giả A Thành tên thật là Chung A Thành sinh năm 1949 ở Tứ Xuyên. Đây là tác phẩm đầu tay của ông. Do khuôn khổ tờ báo, chúng tôi không thể in trọn tác phẩm nổi tiếng này khoảng gần 100 trang sách. Dưới đây là chương IV, chương cuối cùng của "Vua cờ".
ROBERT SWINDELLS (ANH)Nếu thế giới này bằng phẳng và nếu bạn có thể nhìn thẳng vào mặt trời đang mọc, bạn sẽ nhìn thấy miền đất nơi Nick và Bruin sinh sống. Nơi ban ngày ẩm nhoẹt còn ban đêm thì ngột ngạt ghê người, nơi mặt trời lên như kẻ thù và gió như muốn bốc cháy.
ALEXANDER VAMPILOV (NGA)Nikolai Nikolaevich Smirnov tin chắc là ông không sống được đến mùa xuân sang năm.
OTTO STEIGER (THỤY SĨ)Ai cũng biết rằng cái tên Ruđenxơ tượng trưng cho sức mạnh và lòng dũng cảm, vậy mà nhân vật của chúng ta lại là một người nhút nhát. Có thể nói là từ lúc lọt lòng: mặc cho bác sĩ hầm hừ doạ nạt và bà đỡ cố công thúc đẩy, mãi ông chẳng chịu ra cho. Điều này để lại dấu vết trên diện mạo của ông. Khi rốt cuộc ông cũng được sinh ra và nhìn thấy thế gian buồn khổ này, trông ông xấu xí quá lắm, còn cái đầu thì rõ là chiếc bắp cải chứ không ngoa.
SLAWOMIR MROZEKSlawomir Mrozek sinh ngày 26 tháng 6 năm 1930, là nhà văn, kịch tác gia và hoạ sĩ tranh biếm hoạ nổi tiếng của Ba Lan. Năm 1953 tập truyện ngắn đầu tay của ông ra đời và bốn năm sau đó tập truyện Con voi được nhận giải thưởng của Tạp chí văn hoá.
ERNEST HEMINGWAYKhông ai có thể chỉ cho mọi người biết mình là thế nào rõ rệt hơn chính tôi làm việc đó. Không ai có thể giấu mình khỏi anh em đồng loại, bởi vì mỗi hành vi của con người, mỗi hành động của sáng tạo đều nói về tác giả của nó. Tôi kể hết cho mọi người biết mọi điều về tôi trong các cuốn sách của mình.
ANDRA NEYBURGA ()LGT: Nữ nhà văn Andra Neyburga sinh năm 1957. Tốt nghiệp Viện Hàn lâm Nghệ thuật Quốc gia Latvia, là người sáng lập tạp chí tiên phong của giới trẻ Latvia Mạch nguồn, chuyên viên tư vấn của Hội Nhà văn Latvia, phụ trách Hội tác giả trẻ (1987-1989). Tác phẩm của cô đã được dịch ra nhiều thứ tiếng Châu Âu như Đức, Anh, Pháp, Nga...
ENYO IOGY TESHANSKY ()(Truyện cổ - có thể cho cả người lớn đọc)Mơ thường trái hẳn với thực, chẳng phải vậy sao? Trong mơ những mong ước thiêng liêng nhất của chúng ta đều được thực hiện. Khi ta mơ thấy được vàng ấy là khi trong đời ta không một xu dính túi. Nói gọn lại, tương tự như ví dụ này, bạn có thể dễ dàng hình dung tình hình chính trị và xã hội của Xứ Mơ là thế nào.
SLAWOMIR MROZEK (Ba Lan)Tôi ngồi trong quán cà phê, cũ, vắng, và đang uống cốc nước chè của mình, bỗng tôi thấy có một vật mà ta có thể gọi là người tí hon đang đi ngang qua mặt bàn.
Mẹ tôi làm nghề phù thủy. Bà có thể chế thứ thuốc nước để làm sáng mắt hay để làm nóng dạ con. Bà biết cách thụt rửa âm đạo để có con trai như ý muốn hay chế một liều thuốc độc để tẩy những đứa trẻ không được mong muốn sinh ra. Ngoại trừ những lúc cấp bách, bà tự hái thuốc và lấy những phần thân thể động vật, tôi không được phép giúp bà.
LGT: Tác giả có cách dẫn dắt truyện bất ngờ, lôi cuốn nhờ chọn lựa một chi tiết vừa là nhan đề hay: “Cánh cửa sổ mở”. Từ đó trộn lẫn thực tại với ảo giác qua lời “bịa như thật” với lôgích tưởng tượng tuyệt vời. Điểm đặc sắc là cách xây dựng cấu trúc nhân vật theo kiểu thôi miên nạn nhân bị suy nhược thần kinh của một cô gái tinh nghịch có trí tưởng tượng bịa chuyện lạ kỳ.Chính việc lựa chọn điểm nhìn trần thật bên trong của nhân vật Framton dọc suốt 2/3 truyện với sự ngây thơ dễ tin của anh tạo nên một kết thúc bất ngờ hài hước. BỬU NAM giới thiệu
(tiếp theo phần 1)
Hanan Al Shaykh sinh ra trong một gia đình theo đạo Hồi ở Libăng. Bà lớn lên ở Beirut và sau đó học tại Cairo; là một phóng viên có tiếng ở Beirut và Cairo . Bà lấy chồng là một kỹ sư người Libăng theo đạo Thiên chúa giáo và có hai con. Từ năm 1982 do nội chiến nên họ chuyển tới sống ở London . Bà đã viết ba tiểu thuyết được hoan nghênh nồng nhiệt, Câu chuyện của Zahra, Những người đàn bà của cát và Myrrh. Truyện Myrrh đã được thời báo Publisher's Weekly chọn là một trong số 50 cuốn sách hay nhất năm 1992, và gần đây nhất bà xuất bản cuốn Những nữ học giả ở Beirut . Bà còn là tác giả của một số tập truyện ngắn.
- Coi nào, tạm biệt Jerry! Chăm sóc tốt bà chủ nhé. Phải vâng lời, đừng sủa bậy, đừng có hơi một tí là cáu nghe chưa. Tao sẽ báo cho mày khi nào tao về và mày phải chịu trách nhiệm cái nhà này khi tao vắng mặt đó.
Maisa thích những cái cây đó dù cô không biết chúng tên gì và cũng không tính xem chúng có bao nhiêu nữa. Các thân cây quyện vào nhau rồi lại tách ra, tán lá xoè xuống trải rộng trên mặt đất, những cái lá hình nón xào xạc trong cơn gió chiều.
LTS: Jhumpa Lahiri, sinh ở London trong một gia đình người Belgali (Ấn Độ), lớn lên ở đảo Rhode, hiện sống tại New York . Truyện “Người dịch bệnh” được rút từ tập truyện ngắn Interpreter of Maladies là tác phẩm đầu tay của cô, đã được giải Pulitzer 2000 cho thể loại truyện hư cấu, giải của báo New Yorker cho sách đầu tay hay nhất. Sông Hương xin trân trọng giới thiệu.
1Anh trở về nhà dọc theo con phố của một thành phố nhỏ ở Czech, nơi anh đã mấy năm sống bình lặng, quen chịu những người hàng xóm hay chuyện và cảnh tục tằn đơn điệu tại công sở - anh bước đi không để ý gì xung quanh (như người ta đi trên con đường đã qua lại trăm lần) và suýt nữa thì ngang qua chị mà không biết.
“Chính anh đã cho em biết tình yêu là gì”. Herman Hesse