Nước mắt chim cu

09:05 12/11/2010
LTS: Vassily Shukshin (1929-1974), một diễn viên tài hoa, một đạo diễn phim lỗi lạc, một nhà văn tên tuổi. Thật khó nói lãnh vực nghệ thuật nào đã quyết định quá trình hình thành tài năng của Shukshin: truyện ngắn, tiểu thuyết hay điện ảnh? Nhưng dẫu sao vẫn không cần bàn cãi gì nữa về giá trị truyện ngắn của Shukshin. Xin giới thiệu một trong những truyện ngắn viết vào những năm cuối đời của nhà văn.

Ảnh: Internet

VASSILY SHUKSHIN


Nước mắt chim cu



Họ đánh xe dọc theo bìa rừng.

Xe ngựa lăn bánh trên đường đầy bụi, xóc nẩy trên những rễ cây sần sùi, tiếng loảng xoảng kim loại vang lên từ trục xe.

Mặt trời đã xế nhưng vẫn còn nóng. Oi bức. Không khí nặng mùi bụi đất, mùi nhựa cây và mùi dâu tây mọc hoang.

Hai người trên xe, một đàn ông và một thiếu phụ. Họ trạc tuổi nhau khoảng chừng ba mươi.

Thiếu phụ ngồi đánh xe ở phía trước, trên băng ngang. Người đàn ông nằm đàng sau, trên đống cỏ xanh lục, ngước nhìn bầu trời không mây, phì phèo thuốc lá.

Chẳng ai nói lời nào.

Thiếu phụ cúi đầu và thỉnh thoảng gõ gõ đầu mút dây cương vào mũi giày ống. Cô đang nghĩ ngợi điều gì.

Họ đã đánh xe từ ga được hai giờ. Họ đã chuyện trò về địa phương, về các thứ trên đời và bây giờ thì im lặng.

Con ngựa thiến màu hồng lực lưỡng giữ nước kiệu đều, khụt khịt mũi và làm bộ cương rung leng keng. Chốc chốc, thiếu phụ lại ngẩng đầu, uể oải giật cương:

- Nhanh nào, mày ngủ đấy à?

Con ngựa liếc nhìn đàng sau, tròng mắt màu tím long lên và vểnh đôi tai nhưng chẳng chạy nhanh hơn. Thiếu phụ lại cúi đầu, gõ gõ mút dây cương vào mũi giày. Xe nghiêng lệch, cố chống tay giữ thăng bằng, người hơi ngả về phía sau, trong thùng xe, áo choàng trắng vắt ngang vai. Người đàn ông ngoảnh đầu, chăm chú nhìn thiếu phụ hồi lâu, nhìn chiếc cổ cân đối và những lọn tóc xoăn xoăn nâu nhạt gần đôi tai. Rồi anh lại tiếp tục hút thuốc và ngước nhìn bầu trời.

Tiếng hót thánh thót của bầy chim chiền chiện từ trên cao vọng lại. Tiếng rền rĩ khô khan không dứt của lũ châu chấu tràn đầy bầu không khí oi bức. Chung quanh, trong khu rừng và ngoài cánh đồng, mọi vật đều yên ả trong oi bức nặng nề.

Người đàn ông ngồi dậy, ném mẩu tàn thuốc xuống đường và châm điếu khác.

- Cô nghĩ gì thế? - Anh hỏi.

- Chẳng có gì - Thiếu phụ điềm nhiên trả lời, vẫn gõ gõ dây cương vào giày ống.

Người đàn ông hất ngược mái tóc hoe vàng xỏa trên vầng trán cao, thanh tú và lần ra ngồi cạnh thiếu phụ. Cô nhìn nghiêng người đàn ông. Mắt cô màu xám, sáng.

- Quả là một ngày nóng bức. Ở Xi-bê-ri tôi chưa từng nghĩ đến cái nóng thiêu đốt như ở đây.

- Chúng tôi thì thỉnh thoảng - Thiếu phụ đáp.

Người đàn ông rít một hơi thuốc thật sâu. Làn khói thuốc xanh mỏng bay lơ lửng trên đầu anh ta rồi tan biến.

- Cô đến ga thăm ai đấy?

- Không. Chúng tôi đi đón bác sĩ của chúng tôi nhưng cô ấy chưa đến - Thiếu phụ lại quay sang người bạn đồng hành.

Người đàn ông vội tránh đôi mắt cô. Lát sau, anh nằm duỗi chân, nói bằng giọng cảm xúc:

- Ở đây tuyệt quá. Thích thật!

- Phải, tốt thôi - Thiếu phụ đồng tình một cách giản dị và dõi mắt nhìn về phía xa, trên cánh đồng.

- Chỉ phải cái hơi buồn, tôi đoán thế. Phải không? - Người đàn ông mỉm cười.

- Tùy. Chúng tôi không thấy thế. Mà tại sao chúng tôi phải buồn?

- Cô cho rằng cô không bao giờ buồn à? - Người đàn ông vẫn mỉm cười.

- Thiếu phụ nhún vai.

- Không.

- Thật chứ?

Thiếu phụ nhìn người bạn đồng hành, thoáng cười khó hiểu rồi lại gõ gõ dây cương vào mũi giày.

- Cô có chồng chứ? - Người đàn ông bất ngờ hỏi.

Thiếu phụ chớp mắt:

- Không. Không có. Mà sao?

- Tôi chỉ hỏi thế thôi. Tôi nghĩ là cô không có chồng.

Thiếu phụ nheo mắt. Đôi mắt màu xám, sáng của cô trở nên duyên dáng. Đôi môi tươi tràn đầy nữ tính mở hé và hơi trễ xuống ở góc miệng.

- Nhưng vì sao anh nghĩ thế?

- Tôi không biết. Tôi chỉ đoán thôi. Ly hôn à?

- Cứ cho là vậy.

- Vì sao?

Thiếu phụ ngoảnh mặt đi. Cô không muốn bàn chuyện ấy.

- Bởi một lẽ chính đáng - Cô nói.

- Hừm!... - Người đàn ông lại hất ngược mái tóc - Đôi khi, chuyện nó như thế đấy.

Cả hai cùng im lặng hồi lâu.

- Còn bây giờ thì thế nào? - Người đàn ông hỏi.

- Thế nào về cái gì?

- Cuộc sống chung chung ấy mà.

Thiếu phụ cười gượng, không quay về phía người đàn ông:

- Thường thường.

- Thường thường? Chẳng nói lên được điều gì! - Người đàn ông cười lớn - Thường thường, quả không có nghĩa gì cả.

- Ôi trời!... - Thiếu phụ lắc đầu và nhìn thẳng vào mắt người đàn ông.

Anh ta ngừng cười… Họ nhìn nhau giây lát. Người đàn ông với vẻ dò tìm, thiếu phụ thì ngỡ ngàng xúc động. Và đột nhiên, cả hai cùng cười vang. Một tia lửa nhỏ ấm áp lóe sáng trong đôi mắt màu xám của thiếu phụ.

- Cô cười gì đấy, hả? Nói tôi nghe nào. Cười về chuyện gì? - Người đàn ông hỏi, ngón tay trỏ vào thiếu phụ với nụ cười vui vẻ.

- Buột miệng thôi - Thiếu phụ quay mặt đi, dùng khăn tay dụi mắt. Giọng cô lại hoàn toàn nghiêm nghị khi hỏi - Ông đến đây làm gì? Đại diện cơ quan à?

- Tôi là họa sĩ - Anh nói - Tôi đến đây để vẽ. Vẽ một vài đề tài ở vùng này.

Thiếu phụ nhìn người bạn đồng hành với ánh mắt thích thú.

- Sao? - Họa sĩ hỏi.

- Chẳng sao cả. Ở câu lạc bộ của chúng tôi cũng có một họa sĩ.

- Thế à? - Người họa sĩ không biết nói gì về anh chàng đồng nghiệp của câu lạc bộ nên chỉ gật gù - Ờ, ở đâu chả có họa sĩ.

- Ông vẽ gì thế?

- Đủ thứ. Cô… Tôi có thể vẽ cô chẳng hạn. Muốn tôi vẽ chứ?

Thiếu phụ mỉm cười.

- Tôi? Sao lại vẽ tôi? Nhưng ở đây chúng tôi có một vài cảnh rất đẹp. Dòng sông chẳng hạn. Đi lấy nước buổi sáng, đôi lúc, nó đẹp đến nỗi tôi không tài nào rời mắt. Những khi ấy, tôi thầm nghĩ - giá mình có thể vẽ dòng sông nhỉ.

- Đã bao giờ thử chưa?

- Hứ!.. Ông nên nhìn ngắm dòng sông tận mắt, vào buổi sớm mai ấy. Nói tôi nghe nào, muốn vẽ cần phải học hay chỉ bẩm sinh?

- Cả hai.. Phải học nhiều đấy… - Họa sĩ không muốn nói về chuyện vẽ vời. - Dù sao, tôi vẫn muốn biết thêm về cô…

Anh nhảy xuống xe và rảo bước bên cạnh, mỉm cười với thiếu phụ.

- Sao? Cô sống ra sao trong thiên đường này? - Họa sĩ dang tay, nhìn quanh.

Thiếu phụ đáp lại nụ cười mỉm của họa sĩ.

- Rất tốt lành.

Người đàn ông hít một hơi dài, rẽ sang bên đường, hái mấy nhánh hoa ấm bám đầy bụi rồi đuổi kịp xe ngựa, trao cho thiếu phụ. Cô nhận bó hoa với nụ cười biết ơn.

- Người ta gọi hoa này là Nước mắt chim cu - Cô nói và bắt đầu thận trọng kết những cành hoa thành bó nhỏ.

- Chim cu không tìm thấy tổ. Vì thế nó kêu khóc mãi. Nước mắt rơi xuống đâu hoa mọc đến đấy.

- Cô thích chứ? - Họa sĩ đánh đu vào thành xe. Khi trèo lên, tay anh chạm vào đầu gối thiếu phụ. Anh liếc nhanh cô ta.

Thiếu phụ kéo sửa lại tấm váy và tiếp tục xếp những cành hoa. Trong phút chốc, một bức tranh hiện lên trong trí tưởng họa sĩ. Một thiếu phụ đầy sức sống thầm lặng và đẹp đang kết bó hoa nhỏ màu xanh nhợt nhạt, buồn tẻ: hoa Nước mắt chim cu. Nhưng một cảm giác xao động mãnh liệt như sóng trào xâm chiếm anh và bức tranh vụt biến mất. Đột nhiên, mọi thứ đều nhuốm vẻ đắng cay, tạm bợ và tang tóc.

- Cuộc sống là cái quái gì nhỉ? - Họa sĩ cao giọng - Nó trôi qua trong thoáng chốc. Và thế đấy! - Anh nhìn thiếu phụ, chờ đợi sự đồng cảm - May ra, chúng ta có thể làm được những gì chúng ta đã khởi sự, hay ít ra cũng cố như thế.. - Anh co người lại, lời lẽ điên cuồng và nông cạn. Quỷ sứ! Cô không hiểu à? Chúng ta làm được đấy. Nhưng làm được những gì nhỉ? Suốt đời, chúng ta phải bóp nghẹt hơi thở của mình và tự nhủ rằng chúng ta là những người tốt bụng đến thế… Nhìn kìa, cánh rừng, thảo nguyên, bầu trời… Tất cả đều làm ta nhói buốt với tất cả say mê. Ôi đẹp quá! Hãy yêu và tình yêu là trên hết. Yêu đi, đó là tất cả! Những gì còn lại đều không đáng kể! - Anh có vẻ như đang tranh luận với ai. Anh vung tay, lớn tiếng sôi nổi. Và đôi mắt anh không rời thiếu phụ. Chờ đợi.

Thiếu phụ chăm chú nghe. Cô muốn hiểu. Người đàn ông đặt tay lên cánh tay cô.

- Sao cô nhìn tôi như thế? Cô không hiểu à? - Cánh tay người đàn ông lướt nhanh lên bờ vai mềm mại của thiếu phụ, cố ghì về phía mình. Thiếu phụ vùng thoát khỏi, nhìn thẳng vào mắt người đàn ông với vẻ lạnh lùng khiến người ta phải bối rối, như một cái tát vào mặt. Bằng một giọng khác lạ, gay gắt cô nói - Tôi hiểu - và quay đi. Họa sĩ rụt tay lại như gặp phải lửa, mỉm cười lúng túng.

- Ô, chúng ta như thế ấy kia à? - Anh đăm đăm lặng nhìn thiếu phụ hồi lâu rồi cáu kỉnh - Chúng ta sống đời sống nhỏ nhoi của mình, rồi chết đi. Thế là thế đấy. Để cho chúng xéo hết đi là xong! - Anh nói tiếp, giọng trầm lặng, giận dữ. Anh co chân lên khỏi xe, ngả người nằm trở lại và úp mặt vào đống cỏ thơm.

Xe chạy tiếp một hồi lâu. Hai bánh trước kêu loảng xoảng. Con ngựa hồng khụt khịt mũi. Lũ chim hòa chung tiếng hót trong cánh rừng lúc này tràn ngập ánh nắng cuối ngày. Mặt trời to lớn, rực rỡ đang lặn ở phía bên kia cánh đồng.

Thiếu phụ liếc nhanh người bạn đồng hành. Anh vẫn nằm im. Đôi xương vai gầy nhô trên tấm lưng hẹp, dưới mảnh áo lụa đắt tiền. Sợi gân xanh đập dồn dập trên thái dương.

- Mấy giờ rồi nhỉ? - Thiếu phụ hỏi.

Người đàn ông trở dậy, nhìn thẳng hướng con đường trước mặt, nhỏ nhẹ nói:

- Cô hãy… hãy tha lỗi cho tôi. Tất cả những gì tôi vừa nói, nghĩ lại thật ân hận - Anh nhíu mày, nới lỏng cà-vạt, nhìn thiếu phụ. Cô cũng nhìn anh chăm chú như muốn tìm hiểu.

- Không sao - Cô nói, khóe môi máy động một nụ cười chế giễu nhưng không hẳn làm mếch lòng anh, nụ cười thân thiện - khu rừng và cánh đồng, chúng đều có ích, phải không?

Người đàn ông cũng mỉm cười ngây ngô:

- Đúng thế. Chân lý ấy vừa đến với tôi - Anh đưa tay che mặt - Tôi cảm thấy như thể mình vừa ăn vụng bánh mì.

- Thôi, đừng để ý chuyện ấy nữa. Đàn ông các anh thật giống nhau nếu cứ để cho lung tung như thế.

Họa sĩ lấy thuốc ra hút. Anh đan hai bàn tay dài quanh đôi ống chân mảnh khảnh, nghĩ ngợi mông lung. Anh có vẻ của một người chán chường, cáu gắt bất ngờ.

- Tất cả đàn ông à!

- Không phải sao?

- Chắc chắn là không phải tất cả chúng tôi… Còn phải đi bao xa nữa?

- Chừng hai cây số.

- Không, không phải tất cả đàn ông.. Cô không nên nói thế.

Thiếu phụ không nói gì.

Vượt khỏi khu rừng, con đường đưa hai người băng qua cánh đồng.

Buổi chiều buông xuống lặng lẽ và một nỗi buồn dịu dàng, trầm ngâm lan trùm mặt đất. Những con cun cút đầu tiên cất tiếng kêu.

Người đàn ông hút thuốc, ngắm gương mặt nhìn nghiêng của thiếu phụ.

- Cô là một người đàn bà tuyệt vời - Anh nói một cách giản dị và bất ngờ - Tên cô là gì?

- Nina.

- Nina, cô là một người đàn bà tuyệt vời.

- Hứ!... - Thiếu phụ không quay về phía anh. Trong cách ngoảnh mặt đi của cô lộ vẻ bẽn lẽn và hân hoan, một niềm hân hoan thầm lặng, khó quên.

- Tôi sẽ vẽ cô.

- Ông muốn nói gì đấy? - Nina quay về phía họa sĩ rồi lại ngoảnh đi ngay.

- Ấy, vài nét về cô… Bức tranh sẽ được gọi là Nước mắt chim cu.

- Trời! - Nina chỉ có thể kêu lên như thế.

Họ im lặng hồi lâu.

- Ông tên gì? - Nina hỏi.

- Xécgây.

- Ông sẽ ở lại đâu?

- Tôi không biết…

- Ông có thể đến nhà tôi. Chỉ có mẹ và tôi. Nhà rộng lắm, nửa căn còn trống và ở ngay cạnh dòng sông.

Xécgây không trả lời ngay.

- Ấy, cô xem… Cô không bị xúc phạm chứ?

- Ôi, bỏ qua đi. Ông biết hổ thẹn là quí lắm rồi - Cô chúi người về phía trước và dùng dây cương quất vào ngựa. Chiếc xe chồm lên, kêu ầm ĩ trên đường.

- Nina! - Họa sĩ gọi tên thiếu phụ.

- Hả? - Cô không quay lại.

- Cô giận à?

- Ô, không sao… Quá nhiều phiền toái với đàn ông các anh lắm rồi, hơi sức đâu mà giận. Chúng ta đừng nói chuyện ấy nữa. Làng Bêriôzốpka của chúng tôi kia kìa.

Ngôi làng hiện ra lờ mờ trước mặt. Những mái nhà đỏ tía trong tia nắng chói của buổi hoàng hôn như thể đang âm ỉ cháy giữa cánh đồng lúa mới độ chín vàng.

- Ông có thể vẽ buổi chiều thế này? - Nina hỏi - Ông xem kìa, thật đáng yêu làm sao!

- Phải - Họa sĩ lặng lẽ đáp. Anh ngập ngừng rồi lặp lại - Phải, đáng yêu quá.

Và buổi chiều quả là đáng yêu.

Vĩnh Quyền dịch từ bản tiếng Anh
rút trong tập “I Want to live”,
NXB Tiến Bộ, Matxcơva.

(7/6-84)







Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Kevin Klinskidorn trưởng thành ở Puget Sound - một vùng ven biển tây bắc bang Washington và hiện sống ở bờ đông tại Philadelphia. Anh đã được giải thưởng Nina Mae Kellogg của đại học Portland State về tác phẩm hư cấu và hiện đang viết tiểu thuyết đầu tay.

    Truyện ngắn dưới đây của anh vào chung khảo cuộc thi Seán Ó Faoláin do The Munster Literature Center tổ chức năm 2015.

  • NAGUIB MAHFOUZ  

    Naguib Mahfouz là nhà văn lớn của văn học Arab. Ông sinh năm 1911 tại Cairo (Aicập) và mất năm 2006 cũng tại thành phố này. Mahfouz đã viết tới 34 cuốn tiểu thuyết và hơn 350 truyện ngắn. Cuốn tiểu thuyết lớn nhất của ông là Bộ ba tiểu thuyết (The trilogy) (1956 - 1957).
    Mahfouz được trao giải Nobel văn chương năm 1988.

  • Pete Hamill sinh ngày 24 tháng 6 năm 1935, tại Brooklyn, New York, Hoa Kỳ. Ông là nhà văn, nhà báo. Ông đi nhiều và viết về nhiều đề tài. Ông từng phụ trách chuyên mục và biên tập cho báo New York Post và The New York Daily News.

  • Truyện này được dịch theo bản tiếng Pháp nên chọn nhan đề như trên (Je ne voulais que téléphoner, trong cuốn Douze Contes vagabonds, Nxb. Grasset, 1995) dù nó có vẻ chưa sát với nguyên bản tiếng Tây Ban Nha của tác giả (Sole Vina a Hablar por Teléfono) - Tôi chỉ đến để gọi điện thoại thôi.

  • Eugene Marcel Prevost, nhà văn và là kịch tác gia người Pháp, sinh ngày 1/5/1862 tại Paris, mất ngày 8/4/1941 tại Vianne, thuộc khu hành chính Lot- et-Garonne. Năm 1909, ông được mời vào Hàn lâm viện Pháp. 

  • AMBROSE BIERCE   

    Năm 1861, chàng trai Barr Lassiter sống cùng cha mẹ và người chị ở gần Carthage, Tennesse.

  • Nassar Ibrahim là nhà văn, nhà báo người Palestine. Ông còn là nhà hoạt động xã hội, nguyên Tổng Biên tập báo El Hadaf tại Palestine. Truyện ngắn dưới đây được in lần đầu bằng tiếng Ả Rập trong tạp chí Masharef 28, số mùa thu 2005, được Taline Voskeritchian dịch sang tiếng Anh, in trong tạp chí Wordswithoutborders số tháng 11/2006.

  • THOMAS VINT

    L.T.S: Thomas Vint người Estonia, năm nay 49 tuổi. Hiện ông viết văn và sống ở Estonia (Liên Xô). Ngoài khả năng viết văn xuôi, ông còn thích vẽ. Ông đã từng triển lãm tranh ở Pháp vào năm 1988. Ông cũng đã tự minh họa cho tập truyện ngắn đầu tiên của mình.

  • JOSHUA BROWN (Mỹ)  

    “Con sẽ làm vua!” một chú lợn con nói với bố mẹ.
    Lợn Mẹ mỉm cười nhìn con. “Làm sao con có thể thành vua được khi con chỉ là một chú lợn con?”

  • RAY BRADBURY

    Theo Ray Bradbury, truyện khoa học giả tưởng khác với sự tưởng tượng thuần túy ở chỗ nó là "một dự phóng hợp lý của thực tại". Vì vậy cuộc đi dạo ngắn ngủi này nói lên những gì ông suy nghĩ - hay lo sợ - có thể dễ dàng trở thành một bức tranh thật.

  • Thomas Burke (1886 - 1945) sinh tại Clapham, ngoại ô thành phố Luân Đôn, nước Anh. Cha chết khi còn rất nhỏ, ông sống với người chú, sau được gởi vào một cô nhi viện.

  • JORGE LUIS BORGES

    Jorge Luis Borges (tên đầy đủ là Jorge Francisco Isidoro Luis Borges Acevedo) sinh ngày 24 tháng 8 năm 1899 tại Buenos Aires, Argentina.

  • CLAUDE FARRÈRE

    Những kẻ văn minh là tên cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn Pháp Claude Farrère (1876 - 1957) đã nhiều năm sang Việt Nam mô tả vạch trần và lên án sâu sắc chế độ thực dân Pháp ở Việt Nam và Đông Dương trong hơn 80 năm đô hộ.

  • HERMANN HESSE
    (Nhà văn Đức, Nobel văn học năm 1946)    

    Trước đây, một chàng trai trẻ có tên là Ziegler đã sống ở ngõ Brauer. Anh là một trong những người thường xuyên ngày nào cũng gặp chúng tôi ở trên đường phố và chưa bao giờ chúng tôi có thể ghi nhớ chính xác khuôn mặt của những người ấy, vì tất cả bọn họ cùng có khuôn mặt giống nhau: một khuôn mặt bình thường ở giữa đám đông.

  • Nhà văn Nenden Lilis A. sinh tại Malangbong-Garut (Tây Java) năm 1971, là giảng viên khoa Giáo dục và Văn chương tại Indonesian Education University ở Bandung.
    Truyện ngắn và thơ của bà đã in trên nhiều ấn phẩm trong nước. Bà cũng thường được mời nói chuyện tại các hội nghị văn học cả ở trong nước và nước ngoài (như Malaysia, Hà Lan và Pháp). Thơ của bà đã được dịch sang tiếng Anh, Hà Lan và Đức.
    Truyện ngắn dưới đây được John H. McGlynn dịch từ tiếng Indonesia sang tiếng Anh.

  • ALEKSANDAR HEMON

    Đám đông xôn xao trong bầu bụi chiều nâu xỉn; họ đợi đã quá lâu rồi. Cuối cùng, Quan tổng trấn bước xuống bậc thang áp chót, dạng chân và chống nạnh ra vẻ quyền chức thường thấy. 

  • Lời dẫn: Cách đây 475 năm, vào ngày 22 tháng 2, tại thành phố Xenvia đã qua đời một người Italia tên Amêrigô, một người đã từng giong buồm liền 7 năm trời trên những vịnh ở phía Bắc và Tây châu Nam Mỹ.

  • LTS: Issac Bashevis Singer sinh tại Ba Lan. Ông là một nhà văn lớn của Do Thái. Hầu hết truyện của ông đều viết bằng tiếng Hébreu và Yiddish, tức tiếng Do Thái cổ. Với lối văn trong sáng, giản dị, có tính cách tự sự, ông thường viết về cuộc sống của những người dân Do Thái cùng khổ. Ông được tặng giải Nobel văn chương năm 1978.