Ảnh: Internet
VASSILY SHUKSHIN Nước mắt chim cu Họ đánh xe dọc theo bìa rừng. Xe ngựa lăn bánh trên đường đầy bụi, xóc nẩy trên những rễ cây sần sùi, tiếng loảng xoảng kim loại vang lên từ trục xe. Mặt trời đã xế nhưng vẫn còn nóng. Oi bức. Không khí nặng mùi bụi đất, mùi nhựa cây và mùi dâu tây mọc hoang. Hai người trên xe, một đàn ông và một thiếu phụ. Họ trạc tuổi nhau khoảng chừng ba mươi. Thiếu phụ ngồi đánh xe ở phía trước, trên băng ngang. Người đàn ông nằm đàng sau, trên đống cỏ xanh lục, ngước nhìn bầu trời không mây, phì phèo thuốc lá. Chẳng ai nói lời nào. Thiếu phụ cúi đầu và thỉnh thoảng gõ gõ đầu mút dây cương vào mũi giày ống. Cô đang nghĩ ngợi điều gì. Họ đã đánh xe từ ga được hai giờ. Họ đã chuyện trò về địa phương, về các thứ trên đời và bây giờ thì im lặng. Con ngựa thiến màu hồng lực lưỡng giữ nước kiệu đều, khụt khịt mũi và làm bộ cương rung leng keng. Chốc chốc, thiếu phụ lại ngẩng đầu, uể oải giật cương: - Nhanh nào, mày ngủ đấy à? Con ngựa liếc nhìn đàng sau, tròng mắt màu tím long lên và vểnh đôi tai nhưng chẳng chạy nhanh hơn. Thiếu phụ lại cúi đầu, gõ gõ mút dây cương vào mũi giày. Xe nghiêng lệch, cố chống tay giữ thăng bằng, người hơi ngả về phía sau, trong thùng xe, áo choàng trắng vắt ngang vai. Người đàn ông ngoảnh đầu, chăm chú nhìn thiếu phụ hồi lâu, nhìn chiếc cổ cân đối và những lọn tóc xoăn xoăn nâu nhạt gần đôi tai. Rồi anh lại tiếp tục hút thuốc và ngước nhìn bầu trời. Tiếng hót thánh thót của bầy chim chiền chiện từ trên cao vọng lại. Tiếng rền rĩ khô khan không dứt của lũ châu chấu tràn đầy bầu không khí oi bức. Chung quanh, trong khu rừng và ngoài cánh đồng, mọi vật đều yên ả trong oi bức nặng nề. Người đàn ông ngồi dậy, ném mẩu tàn thuốc xuống đường và châm điếu khác. - Cô nghĩ gì thế? - Anh hỏi. - Chẳng có gì - Thiếu phụ điềm nhiên trả lời, vẫn gõ gõ dây cương vào giày ống. Người đàn ông hất ngược mái tóc hoe vàng xỏa trên vầng trán cao, thanh tú và lần ra ngồi cạnh thiếu phụ. Cô nhìn nghiêng người đàn ông. Mắt cô màu xám, sáng. - Quả là một ngày nóng bức. Ở Xi-bê-ri tôi chưa từng nghĩ đến cái nóng thiêu đốt như ở đây. - Chúng tôi thì thỉnh thoảng - Thiếu phụ đáp. Người đàn ông rít một hơi thuốc thật sâu. Làn khói thuốc xanh mỏng bay lơ lửng trên đầu anh ta rồi tan biến. - Cô đến ga thăm ai đấy? - Không. Chúng tôi đi đón bác sĩ của chúng tôi nhưng cô ấy chưa đến - Thiếu phụ lại quay sang người bạn đồng hành. Người đàn ông vội tránh đôi mắt cô. Lát sau, anh nằm duỗi chân, nói bằng giọng cảm xúc: - Ở đây tuyệt quá. Thích thật! - Phải, tốt thôi - Thiếu phụ đồng tình một cách giản dị và dõi mắt nhìn về phía xa, trên cánh đồng. - Chỉ phải cái hơi buồn, tôi đoán thế. Phải không? - Người đàn ông mỉm cười. - Tùy. Chúng tôi không thấy thế. Mà tại sao chúng tôi phải buồn? - Cô cho rằng cô không bao giờ buồn à? - Người đàn ông vẫn mỉm cười. - Thiếu phụ nhún vai. - Không. - Thật chứ? Thiếu phụ nhìn người bạn đồng hành, thoáng cười khó hiểu rồi lại gõ gõ dây cương vào mũi giày. - Cô có chồng chứ? - Người đàn ông bất ngờ hỏi. Thiếu phụ chớp mắt: - Không. Không có. Mà sao? - Tôi chỉ hỏi thế thôi. Tôi nghĩ là cô không có chồng. Thiếu phụ nheo mắt. Đôi mắt màu xám, sáng của cô trở nên duyên dáng. Đôi môi tươi tràn đầy nữ tính mở hé và hơi trễ xuống ở góc miệng. - Nhưng vì sao anh nghĩ thế? - Tôi không biết. Tôi chỉ đoán thôi. Ly hôn à? - Cứ cho là vậy. - Vì sao? Thiếu phụ ngoảnh mặt đi. Cô không muốn bàn chuyện ấy. - Bởi một lẽ chính đáng - Cô nói. - Hừm!... - Người đàn ông lại hất ngược mái tóc - Đôi khi, chuyện nó như thế đấy. Cả hai cùng im lặng hồi lâu. - Còn bây giờ thì thế nào? - Người đàn ông hỏi. - Thế nào về cái gì? - Cuộc sống chung chung ấy mà. Thiếu phụ cười gượng, không quay về phía người đàn ông: - Thường thường. - Thường thường? Chẳng nói lên được điều gì! - Người đàn ông cười lớn - Thường thường, quả không có nghĩa gì cả. - Ôi trời!... - Thiếu phụ lắc đầu và nhìn thẳng vào mắt người đàn ông. Anh ta ngừng cười… Họ nhìn nhau giây lát. Người đàn ông với vẻ dò tìm, thiếu phụ thì ngỡ ngàng xúc động. Và đột nhiên, cả hai cùng cười vang. Một tia lửa nhỏ ấm áp lóe sáng trong đôi mắt màu xám của thiếu phụ. - Cô cười gì đấy, hả? Nói tôi nghe nào. Cười về chuyện gì? - Người đàn ông hỏi, ngón tay trỏ vào thiếu phụ với nụ cười vui vẻ. - Buột miệng thôi - Thiếu phụ quay mặt đi, dùng khăn tay dụi mắt. Giọng cô lại hoàn toàn nghiêm nghị khi hỏi - Ông đến đây làm gì? Đại diện cơ quan à? - Tôi là họa sĩ - Anh nói - Tôi đến đây để vẽ. Vẽ một vài đề tài ở vùng này. Thiếu phụ nhìn người bạn đồng hành với ánh mắt thích thú. - Sao? - Họa sĩ hỏi. - Chẳng sao cả. Ở câu lạc bộ của chúng tôi cũng có một họa sĩ. - Thế à? - Người họa sĩ không biết nói gì về anh chàng đồng nghiệp của câu lạc bộ nên chỉ gật gù - Ờ, ở đâu chả có họa sĩ. - Ông vẽ gì thế? - Đủ thứ. Cô… Tôi có thể vẽ cô chẳng hạn. Muốn tôi vẽ chứ? Thiếu phụ mỉm cười. - Tôi? Sao lại vẽ tôi? Nhưng ở đây chúng tôi có một vài cảnh rất đẹp. Dòng sông chẳng hạn. Đi lấy nước buổi sáng, đôi lúc, nó đẹp đến nỗi tôi không tài nào rời mắt. Những khi ấy, tôi thầm nghĩ - giá mình có thể vẽ dòng sông nhỉ. - Đã bao giờ thử chưa? - Hứ!.. Ông nên nhìn ngắm dòng sông tận mắt, vào buổi sớm mai ấy. Nói tôi nghe nào, muốn vẽ cần phải học hay chỉ bẩm sinh? - Cả hai.. Phải học nhiều đấy… - Họa sĩ không muốn nói về chuyện vẽ vời. - Dù sao, tôi vẫn muốn biết thêm về cô… Anh nhảy xuống xe và rảo bước bên cạnh, mỉm cười với thiếu phụ. - Sao? Cô sống ra sao trong thiên đường này? - Họa sĩ dang tay, nhìn quanh. Thiếu phụ đáp lại nụ cười mỉm của họa sĩ. - Rất tốt lành. Người đàn ông hít một hơi dài, rẽ sang bên đường, hái mấy nhánh hoa ấm bám đầy bụi rồi đuổi kịp xe ngựa, trao cho thiếu phụ. Cô nhận bó hoa với nụ cười biết ơn. - Người ta gọi hoa này là Nước mắt chim cu - Cô nói và bắt đầu thận trọng kết những cành hoa thành bó nhỏ. - Chim cu không tìm thấy tổ. Vì thế nó kêu khóc mãi. Nước mắt rơi xuống đâu hoa mọc đến đấy. - Cô thích chứ? - Họa sĩ đánh đu vào thành xe. Khi trèo lên, tay anh chạm vào đầu gối thiếu phụ. Anh liếc nhanh cô ta. Thiếu phụ kéo sửa lại tấm váy và tiếp tục xếp những cành hoa. Trong phút chốc, một bức tranh hiện lên trong trí tưởng họa sĩ. Một thiếu phụ đầy sức sống thầm lặng và đẹp đang kết bó hoa nhỏ màu xanh nhợt nhạt, buồn tẻ: hoa Nước mắt chim cu. Nhưng một cảm giác xao động mãnh liệt như sóng trào xâm chiếm anh và bức tranh vụt biến mất. Đột nhiên, mọi thứ đều nhuốm vẻ đắng cay, tạm bợ và tang tóc. - Cuộc sống là cái quái gì nhỉ? - Họa sĩ cao giọng - Nó trôi qua trong thoáng chốc. Và thế đấy! - Anh nhìn thiếu phụ, chờ đợi sự đồng cảm - May ra, chúng ta có thể làm được những gì chúng ta đã khởi sự, hay ít ra cũng cố như thế.. - Anh co người lại, lời lẽ điên cuồng và nông cạn. Quỷ sứ! Cô không hiểu à? Chúng ta làm được đấy. Nhưng làm được những gì nhỉ? Suốt đời, chúng ta phải bóp nghẹt hơi thở của mình và tự nhủ rằng chúng ta là những người tốt bụng đến thế… Nhìn kìa, cánh rừng, thảo nguyên, bầu trời… Tất cả đều làm ta nhói buốt với tất cả say mê. Ôi đẹp quá! Hãy yêu và tình yêu là trên hết. Yêu đi, đó là tất cả! Những gì còn lại đều không đáng kể! - Anh có vẻ như đang tranh luận với ai. Anh vung tay, lớn tiếng sôi nổi. Và đôi mắt anh không rời thiếu phụ. Chờ đợi. Thiếu phụ chăm chú nghe. Cô muốn hiểu. Người đàn ông đặt tay lên cánh tay cô. - Sao cô nhìn tôi như thế? Cô không hiểu à? - Cánh tay người đàn ông lướt nhanh lên bờ vai mềm mại của thiếu phụ, cố ghì về phía mình. Thiếu phụ vùng thoát khỏi, nhìn thẳng vào mắt người đàn ông với vẻ lạnh lùng khiến người ta phải bối rối, như một cái tát vào mặt. Bằng một giọng khác lạ, gay gắt cô nói - Tôi hiểu - và quay đi. Họa sĩ rụt tay lại như gặp phải lửa, mỉm cười lúng túng. - Ô, chúng ta như thế ấy kia à? - Anh đăm đăm lặng nhìn thiếu phụ hồi lâu rồi cáu kỉnh - Chúng ta sống đời sống nhỏ nhoi của mình, rồi chết đi. Thế là thế đấy. Để cho chúng xéo hết đi là xong! - Anh nói tiếp, giọng trầm lặng, giận dữ. Anh co chân lên khỏi xe, ngả người nằm trở lại và úp mặt vào đống cỏ thơm. Xe chạy tiếp một hồi lâu. Hai bánh trước kêu loảng xoảng. Con ngựa hồng khụt khịt mũi. Lũ chim hòa chung tiếng hót trong cánh rừng lúc này tràn ngập ánh nắng cuối ngày. Mặt trời to lớn, rực rỡ đang lặn ở phía bên kia cánh đồng. Thiếu phụ liếc nhanh người bạn đồng hành. Anh vẫn nằm im. Đôi xương vai gầy nhô trên tấm lưng hẹp, dưới mảnh áo lụa đắt tiền. Sợi gân xanh đập dồn dập trên thái dương. - Mấy giờ rồi nhỉ? - Thiếu phụ hỏi. Người đàn ông trở dậy, nhìn thẳng hướng con đường trước mặt, nhỏ nhẹ nói: - Cô hãy… hãy tha lỗi cho tôi. Tất cả những gì tôi vừa nói, nghĩ lại thật ân hận - Anh nhíu mày, nới lỏng cà-vạt, nhìn thiếu phụ. Cô cũng nhìn anh chăm chú như muốn tìm hiểu. - Không sao - Cô nói, khóe môi máy động một nụ cười chế giễu nhưng không hẳn làm mếch lòng anh, nụ cười thân thiện - khu rừng và cánh đồng, chúng đều có ích, phải không? Người đàn ông cũng mỉm cười ngây ngô: - Đúng thế. Chân lý ấy vừa đến với tôi - Anh đưa tay che mặt - Tôi cảm thấy như thể mình vừa ăn vụng bánh mì. - Thôi, đừng để ý chuyện ấy nữa. Đàn ông các anh thật giống nhau nếu cứ để cho lung tung như thế. Họa sĩ lấy thuốc ra hút. Anh đan hai bàn tay dài quanh đôi ống chân mảnh khảnh, nghĩ ngợi mông lung. Anh có vẻ của một người chán chường, cáu gắt bất ngờ. - Tất cả đàn ông à! - Không phải sao? - Chắc chắn là không phải tất cả chúng tôi… Còn phải đi bao xa nữa? - Chừng hai cây số. - Không, không phải tất cả đàn ông.. Cô không nên nói thế. Thiếu phụ không nói gì. Vượt khỏi khu rừng, con đường đưa hai người băng qua cánh đồng. Buổi chiều buông xuống lặng lẽ và một nỗi buồn dịu dàng, trầm ngâm lan trùm mặt đất. Những con cun cút đầu tiên cất tiếng kêu. Người đàn ông hút thuốc, ngắm gương mặt nhìn nghiêng của thiếu phụ. - Cô là một người đàn bà tuyệt vời - Anh nói một cách giản dị và bất ngờ - Tên cô là gì? - Nina. - Nina, cô là một người đàn bà tuyệt vời. - Hứ!... - Thiếu phụ không quay về phía anh. Trong cách ngoảnh mặt đi của cô lộ vẻ bẽn lẽn và hân hoan, một niềm hân hoan thầm lặng, khó quên. - Tôi sẽ vẽ cô. - Ông muốn nói gì đấy? - Nina quay về phía họa sĩ rồi lại ngoảnh đi ngay. - Ấy, vài nét về cô… Bức tranh sẽ được gọi là Nước mắt chim cu. - Trời! - Nina chỉ có thể kêu lên như thế. Họ im lặng hồi lâu. - Ông tên gì? - Nina hỏi. - Xécgây. - Ông sẽ ở lại đâu? - Tôi không biết… - Ông có thể đến nhà tôi. Chỉ có mẹ và tôi. Nhà rộng lắm, nửa căn còn trống và ở ngay cạnh dòng sông. Xécgây không trả lời ngay. - Ấy, cô xem… Cô không bị xúc phạm chứ? - Ôi, bỏ qua đi. Ông biết hổ thẹn là quí lắm rồi - Cô chúi người về phía trước và dùng dây cương quất vào ngựa. Chiếc xe chồm lên, kêu ầm ĩ trên đường. - Nina! - Họa sĩ gọi tên thiếu phụ. - Hả? - Cô không quay lại. - Cô giận à? - Ô, không sao… Quá nhiều phiền toái với đàn ông các anh lắm rồi, hơi sức đâu mà giận. Chúng ta đừng nói chuyện ấy nữa. Làng Bêriôzốpka của chúng tôi kia kìa. Ngôi làng hiện ra lờ mờ trước mặt. Những mái nhà đỏ tía trong tia nắng chói của buổi hoàng hôn như thể đang âm ỉ cháy giữa cánh đồng lúa mới độ chín vàng. - Ông có thể vẽ buổi chiều thế này? - Nina hỏi - Ông xem kìa, thật đáng yêu làm sao! - Phải - Họa sĩ lặng lẽ đáp. Anh ngập ngừng rồi lặp lại - Phải, đáng yêu quá. Và buổi chiều quả là đáng yêu. Vĩnh Quyền dịch từ bản tiếng Anh rút trong tập “I Want to live”, NXB Tiến Bộ, Matxcơva. (7/6-84) |
TIMUR JONATHAN KARACA
Timur Jonathan Karaca được sinh ra ở San Francisco. Ông là bác sĩ y khoa khoa gây mê tại UCSF. Ông sống ở Oakland, nơi ông hành nghề. Karaca theo học sáng tác tại Studio Hội Nhà văn San Francisco.
Naguib Mahfouz (1911 - 2006) sinh ra trong một gia đình nghèo tại Cairo. Ông học triết học tại Đại học Cairo và làm công chức cho tới khi về hưu năm 1971. Mahfouz là nhà văn lớn của Arab và của thế giới. Ông có 35 tiểu thuyết, 14 tập truyện ngắn và nhiều tác phẩm kịch. Tác phẩm của ông rất phổ biến ở phương Tây. Mahfouz được trao giải Nobel văn chương năm 1988.
Truyện ngắn dưới đây diễn tả bi kịch của cá nhân khi bị phụ thuộc vào kẻ khác. Tuy nhiên, như rất nhiều tác phẩm khác của văn học Arab, nó còn mang tính ẩn dụ và nghĩa hàm ẩn.
ALBERT LAMORISSE (Pháp)
Albert Lamorisse là một nghệ sĩ đa tài của nước Pháp. Ông vừa viết văn, làm thơ, vừa biên kịch và đạo diễn điện ảnh. Truyện "Quả bóng đỏ" (Le Ballon Rouge) này đã được chính Albert Lamorisse dựng thành phim, rất nhiều người hâm mộ.
HISHAM BUSTANI
JOHN L’HEUREUX
HANS CHRISTIAN ANDERSON
Hans Christian Andersen sinh tại Odense, Đan Mạch, thuộc gia đình bình dân, cha là thợ đóng giày, mẹ là thợ giặt. Tuy gia cảnh tầm thường, cha ông lại say mê văn học, ông có cả một tủ sách văn học quý giá. Từ sau khi cha qua đời (năm Andersen 11 tuổi), cậu bé đã được thỏa thích đọc những quyển sách cha để lại.
George Saunders - Franz Kafka
Brazil, nhà văn danh tiếng Jorge Amado nói, không phải là một quốc gia mà là một lục địa. Trong phần đóng góp mới nhất của loạt nhà văn trẻ xuất sắc được tạp chí Granta giới thiệu, họ kể những câu chuyện rộng lớn và hấp dẫn của xã hội Brazil hiện đại và ai là tương lai của nó; trong những nhà văn chưa từng được dịch và giới thiệu này góp mặt có Ricardo Lísias đã xuất bản hai tiểu thuyết rất hấp dẫn người đọc.
Xin chuyển dịch sang Việt ngữ từ bản dịch sang Anh ngữ của Daniel Hahn: “My chess teacher”.
Dương Đức dịch và giới thiệu
Daly sinh trưởng tại thành phố Winchester, bang Indiana, Hoa Kỳ. Ông có bằng Cử nhân Văn chương của đại học Ohio Wesleyan University và bằng Bác sĩ Y khoa của đại học Indiana University. Trong 35 năm, ông là bác sĩ phẫu thuật tại Columbus, Indiana. Ông từng là một bác sĩ phẫu thuật cấp tiểu đoàn trong chiến tranh Việt Nam.
AMOS OZ
Sáng sớm, khi mặt trời chưa mọc, tiếng gù của đôi chim bồ câu trong bụi cây bắt đầu trôi qua ô cửa sổ để mở.
ALBERTO MORAVIA
KATHERINE MANSFIELD (Anh)
Thời tiết thật tuyệt vời. Người ta sẽ không có một bữa tiệc ngoài trời hoàn hảo hơn nếu họ không tổ chức tiệc vào ngày hôm nay.
Shun Medoruma (sinh năm 1960) là một trong những nhà văn đương đại quan trọng nhất của Okinawa, Nhật Bản. Ông được giải Akutagawa Prize năm 1997 với truyện ngắn “Giọt nước” (Suiteki).
Có lẽ tác giả tâm đắc lắm với truyện này nên mới chọn để đặt tên cho cả tuyển tập. “The Persimmon Tree, and Other Stories (1943)” gồm 15 truyện ngắn, góp phần mang lại chỗ đứng vững vàng trong văn đàn nước Úc cho nhà văn nữ Marjorie Barnard (1897-1987), người có thể sáng tác nhiều thể loại khác nhau, kể cả phê bình và lịch sử.
MARK TWAIN
M. Twain (1835 - 1910) là nhà văn lớn của Mỹ, từng phải lăn lóc nhiều nghề lao động chân tay trước khi trở thành nhà văn, do đó văn của ông rất được giới lao động ưa chuộng.
L. TOLSTOY
Các anh em từng nghe nói rằng: mắt đền mắt, răng đền răng; còn ta nói với các anh em rằng: đừng chống lại kẻ ác. (Phúc Âm theo Matthiew V, 38, 39).
VẠN CHI (Trung Quốc)
Tôi nhớ hình như ở đây có một bến ô tô buýt. Phải, phải rồi, ngay chỗ giờ đây cô gái kia đang đứng, dưới ngọn đèn đường ảm đạm ấy. Tôi thong thả bước tới, hỏi thăm.
Peter Bichsel sinh tại Lucerne (Thụy Sĩ) ngày 24 tháng 3 năm 1935, là con của một người thợ thủ công. Ông là nhà giáo dạy tại một trường tiểu học cho tới năm 1968.
Chitra Banerjee Divakaruni sinh năm 1957 tại Calcutta, Ấn Độ. Bà học đại học tại Đại học Calcutta. Năm 1976, bà đến Mỹ học thạc sĩ và tiến sĩ, sau đó dạy văn chương tại các đại học ở đó. Bà làm thơ, viết tiểu thuyết và truyện ngắn, được trao nhiều giải thưởng văn học. Ngoài ra bà còn sáng lập tổ chức Maitri chuyên trợ giúp phụ nữ Nam Á bị xúc phạm.
SAKI
1. Saki là bút hiệu của nhà văn Hector Hugh Munro (1870 - 1916), sinh tại Miến Điện (nay là nước Myanmar) khi nước này còn là thuộc địa của Anh.