Ảnh: Internet
VASSILY SHUKSHIN Nước mắt chim cu Họ đánh xe dọc theo bìa rừng. Xe ngựa lăn bánh trên đường đầy bụi, xóc nẩy trên những rễ cây sần sùi, tiếng loảng xoảng kim loại vang lên từ trục xe. Mặt trời đã xế nhưng vẫn còn nóng. Oi bức. Không khí nặng mùi bụi đất, mùi nhựa cây và mùi dâu tây mọc hoang. Hai người trên xe, một đàn ông và một thiếu phụ. Họ trạc tuổi nhau khoảng chừng ba mươi. Thiếu phụ ngồi đánh xe ở phía trước, trên băng ngang. Người đàn ông nằm đàng sau, trên đống cỏ xanh lục, ngước nhìn bầu trời không mây, phì phèo thuốc lá. Chẳng ai nói lời nào. Thiếu phụ cúi đầu và thỉnh thoảng gõ gõ đầu mút dây cương vào mũi giày ống. Cô đang nghĩ ngợi điều gì. Họ đã đánh xe từ ga được hai giờ. Họ đã chuyện trò về địa phương, về các thứ trên đời và bây giờ thì im lặng. Con ngựa thiến màu hồng lực lưỡng giữ nước kiệu đều, khụt khịt mũi và làm bộ cương rung leng keng. Chốc chốc, thiếu phụ lại ngẩng đầu, uể oải giật cương: - Nhanh nào, mày ngủ đấy à? Con ngựa liếc nhìn đàng sau, tròng mắt màu tím long lên và vểnh đôi tai nhưng chẳng chạy nhanh hơn. Thiếu phụ lại cúi đầu, gõ gõ mút dây cương vào mũi giày. Xe nghiêng lệch, cố chống tay giữ thăng bằng, người hơi ngả về phía sau, trong thùng xe, áo choàng trắng vắt ngang vai. Người đàn ông ngoảnh đầu, chăm chú nhìn thiếu phụ hồi lâu, nhìn chiếc cổ cân đối và những lọn tóc xoăn xoăn nâu nhạt gần đôi tai. Rồi anh lại tiếp tục hút thuốc và ngước nhìn bầu trời. Tiếng hót thánh thót của bầy chim chiền chiện từ trên cao vọng lại. Tiếng rền rĩ khô khan không dứt của lũ châu chấu tràn đầy bầu không khí oi bức. Chung quanh, trong khu rừng và ngoài cánh đồng, mọi vật đều yên ả trong oi bức nặng nề. Người đàn ông ngồi dậy, ném mẩu tàn thuốc xuống đường và châm điếu khác. - Cô nghĩ gì thế? - Anh hỏi. - Chẳng có gì - Thiếu phụ điềm nhiên trả lời, vẫn gõ gõ dây cương vào giày ống. Người đàn ông hất ngược mái tóc hoe vàng xỏa trên vầng trán cao, thanh tú và lần ra ngồi cạnh thiếu phụ. Cô nhìn nghiêng người đàn ông. Mắt cô màu xám, sáng. - Quả là một ngày nóng bức. Ở Xi-bê-ri tôi chưa từng nghĩ đến cái nóng thiêu đốt như ở đây. - Chúng tôi thì thỉnh thoảng - Thiếu phụ đáp. Người đàn ông rít một hơi thuốc thật sâu. Làn khói thuốc xanh mỏng bay lơ lửng trên đầu anh ta rồi tan biến. - Cô đến ga thăm ai đấy? - Không. Chúng tôi đi đón bác sĩ của chúng tôi nhưng cô ấy chưa đến - Thiếu phụ lại quay sang người bạn đồng hành. Người đàn ông vội tránh đôi mắt cô. Lát sau, anh nằm duỗi chân, nói bằng giọng cảm xúc: - Ở đây tuyệt quá. Thích thật! - Phải, tốt thôi - Thiếu phụ đồng tình một cách giản dị và dõi mắt nhìn về phía xa, trên cánh đồng. - Chỉ phải cái hơi buồn, tôi đoán thế. Phải không? - Người đàn ông mỉm cười. - Tùy. Chúng tôi không thấy thế. Mà tại sao chúng tôi phải buồn? - Cô cho rằng cô không bao giờ buồn à? - Người đàn ông vẫn mỉm cười. - Thiếu phụ nhún vai. - Không. - Thật chứ? Thiếu phụ nhìn người bạn đồng hành, thoáng cười khó hiểu rồi lại gõ gõ dây cương vào mũi giày. - Cô có chồng chứ? - Người đàn ông bất ngờ hỏi. Thiếu phụ chớp mắt: - Không. Không có. Mà sao? - Tôi chỉ hỏi thế thôi. Tôi nghĩ là cô không có chồng. Thiếu phụ nheo mắt. Đôi mắt màu xám, sáng của cô trở nên duyên dáng. Đôi môi tươi tràn đầy nữ tính mở hé và hơi trễ xuống ở góc miệng. - Nhưng vì sao anh nghĩ thế? - Tôi không biết. Tôi chỉ đoán thôi. Ly hôn à? - Cứ cho là vậy. - Vì sao? Thiếu phụ ngoảnh mặt đi. Cô không muốn bàn chuyện ấy. - Bởi một lẽ chính đáng - Cô nói. - Hừm!... - Người đàn ông lại hất ngược mái tóc - Đôi khi, chuyện nó như thế đấy. Cả hai cùng im lặng hồi lâu. - Còn bây giờ thì thế nào? - Người đàn ông hỏi. - Thế nào về cái gì? - Cuộc sống chung chung ấy mà. Thiếu phụ cười gượng, không quay về phía người đàn ông: - Thường thường. - Thường thường? Chẳng nói lên được điều gì! - Người đàn ông cười lớn - Thường thường, quả không có nghĩa gì cả. - Ôi trời!... - Thiếu phụ lắc đầu và nhìn thẳng vào mắt người đàn ông. Anh ta ngừng cười… Họ nhìn nhau giây lát. Người đàn ông với vẻ dò tìm, thiếu phụ thì ngỡ ngàng xúc động. Và đột nhiên, cả hai cùng cười vang. Một tia lửa nhỏ ấm áp lóe sáng trong đôi mắt màu xám của thiếu phụ. - Cô cười gì đấy, hả? Nói tôi nghe nào. Cười về chuyện gì? - Người đàn ông hỏi, ngón tay trỏ vào thiếu phụ với nụ cười vui vẻ. - Buột miệng thôi - Thiếu phụ quay mặt đi, dùng khăn tay dụi mắt. Giọng cô lại hoàn toàn nghiêm nghị khi hỏi - Ông đến đây làm gì? Đại diện cơ quan à? - Tôi là họa sĩ - Anh nói - Tôi đến đây để vẽ. Vẽ một vài đề tài ở vùng này. Thiếu phụ nhìn người bạn đồng hành với ánh mắt thích thú. - Sao? - Họa sĩ hỏi. - Chẳng sao cả. Ở câu lạc bộ của chúng tôi cũng có một họa sĩ. - Thế à? - Người họa sĩ không biết nói gì về anh chàng đồng nghiệp của câu lạc bộ nên chỉ gật gù - Ờ, ở đâu chả có họa sĩ. - Ông vẽ gì thế? - Đủ thứ. Cô… Tôi có thể vẽ cô chẳng hạn. Muốn tôi vẽ chứ? Thiếu phụ mỉm cười. - Tôi? Sao lại vẽ tôi? Nhưng ở đây chúng tôi có một vài cảnh rất đẹp. Dòng sông chẳng hạn. Đi lấy nước buổi sáng, đôi lúc, nó đẹp đến nỗi tôi không tài nào rời mắt. Những khi ấy, tôi thầm nghĩ - giá mình có thể vẽ dòng sông nhỉ. - Đã bao giờ thử chưa? - Hứ!.. Ông nên nhìn ngắm dòng sông tận mắt, vào buổi sớm mai ấy. Nói tôi nghe nào, muốn vẽ cần phải học hay chỉ bẩm sinh? - Cả hai.. Phải học nhiều đấy… - Họa sĩ không muốn nói về chuyện vẽ vời. - Dù sao, tôi vẫn muốn biết thêm về cô… Anh nhảy xuống xe và rảo bước bên cạnh, mỉm cười với thiếu phụ. - Sao? Cô sống ra sao trong thiên đường này? - Họa sĩ dang tay, nhìn quanh. Thiếu phụ đáp lại nụ cười mỉm của họa sĩ. - Rất tốt lành. Người đàn ông hít một hơi dài, rẽ sang bên đường, hái mấy nhánh hoa ấm bám đầy bụi rồi đuổi kịp xe ngựa, trao cho thiếu phụ. Cô nhận bó hoa với nụ cười biết ơn. - Người ta gọi hoa này là Nước mắt chim cu - Cô nói và bắt đầu thận trọng kết những cành hoa thành bó nhỏ. - Chim cu không tìm thấy tổ. Vì thế nó kêu khóc mãi. Nước mắt rơi xuống đâu hoa mọc đến đấy. - Cô thích chứ? - Họa sĩ đánh đu vào thành xe. Khi trèo lên, tay anh chạm vào đầu gối thiếu phụ. Anh liếc nhanh cô ta. Thiếu phụ kéo sửa lại tấm váy và tiếp tục xếp những cành hoa. Trong phút chốc, một bức tranh hiện lên trong trí tưởng họa sĩ. Một thiếu phụ đầy sức sống thầm lặng và đẹp đang kết bó hoa nhỏ màu xanh nhợt nhạt, buồn tẻ: hoa Nước mắt chim cu. Nhưng một cảm giác xao động mãnh liệt như sóng trào xâm chiếm anh và bức tranh vụt biến mất. Đột nhiên, mọi thứ đều nhuốm vẻ đắng cay, tạm bợ và tang tóc. - Cuộc sống là cái quái gì nhỉ? - Họa sĩ cao giọng - Nó trôi qua trong thoáng chốc. Và thế đấy! - Anh nhìn thiếu phụ, chờ đợi sự đồng cảm - May ra, chúng ta có thể làm được những gì chúng ta đã khởi sự, hay ít ra cũng cố như thế.. - Anh co người lại, lời lẽ điên cuồng và nông cạn. Quỷ sứ! Cô không hiểu à? Chúng ta làm được đấy. Nhưng làm được những gì nhỉ? Suốt đời, chúng ta phải bóp nghẹt hơi thở của mình và tự nhủ rằng chúng ta là những người tốt bụng đến thế… Nhìn kìa, cánh rừng, thảo nguyên, bầu trời… Tất cả đều làm ta nhói buốt với tất cả say mê. Ôi đẹp quá! Hãy yêu và tình yêu là trên hết. Yêu đi, đó là tất cả! Những gì còn lại đều không đáng kể! - Anh có vẻ như đang tranh luận với ai. Anh vung tay, lớn tiếng sôi nổi. Và đôi mắt anh không rời thiếu phụ. Chờ đợi. Thiếu phụ chăm chú nghe. Cô muốn hiểu. Người đàn ông đặt tay lên cánh tay cô. - Sao cô nhìn tôi như thế? Cô không hiểu à? - Cánh tay người đàn ông lướt nhanh lên bờ vai mềm mại của thiếu phụ, cố ghì về phía mình. Thiếu phụ vùng thoát khỏi, nhìn thẳng vào mắt người đàn ông với vẻ lạnh lùng khiến người ta phải bối rối, như một cái tát vào mặt. Bằng một giọng khác lạ, gay gắt cô nói - Tôi hiểu - và quay đi. Họa sĩ rụt tay lại như gặp phải lửa, mỉm cười lúng túng. - Ô, chúng ta như thế ấy kia à? - Anh đăm đăm lặng nhìn thiếu phụ hồi lâu rồi cáu kỉnh - Chúng ta sống đời sống nhỏ nhoi của mình, rồi chết đi. Thế là thế đấy. Để cho chúng xéo hết đi là xong! - Anh nói tiếp, giọng trầm lặng, giận dữ. Anh co chân lên khỏi xe, ngả người nằm trở lại và úp mặt vào đống cỏ thơm. Xe chạy tiếp một hồi lâu. Hai bánh trước kêu loảng xoảng. Con ngựa hồng khụt khịt mũi. Lũ chim hòa chung tiếng hót trong cánh rừng lúc này tràn ngập ánh nắng cuối ngày. Mặt trời to lớn, rực rỡ đang lặn ở phía bên kia cánh đồng. Thiếu phụ liếc nhanh người bạn đồng hành. Anh vẫn nằm im. Đôi xương vai gầy nhô trên tấm lưng hẹp, dưới mảnh áo lụa đắt tiền. Sợi gân xanh đập dồn dập trên thái dương. - Mấy giờ rồi nhỉ? - Thiếu phụ hỏi. Người đàn ông trở dậy, nhìn thẳng hướng con đường trước mặt, nhỏ nhẹ nói: - Cô hãy… hãy tha lỗi cho tôi. Tất cả những gì tôi vừa nói, nghĩ lại thật ân hận - Anh nhíu mày, nới lỏng cà-vạt, nhìn thiếu phụ. Cô cũng nhìn anh chăm chú như muốn tìm hiểu. - Không sao - Cô nói, khóe môi máy động một nụ cười chế giễu nhưng không hẳn làm mếch lòng anh, nụ cười thân thiện - khu rừng và cánh đồng, chúng đều có ích, phải không? Người đàn ông cũng mỉm cười ngây ngô: - Đúng thế. Chân lý ấy vừa đến với tôi - Anh đưa tay che mặt - Tôi cảm thấy như thể mình vừa ăn vụng bánh mì. - Thôi, đừng để ý chuyện ấy nữa. Đàn ông các anh thật giống nhau nếu cứ để cho lung tung như thế. Họa sĩ lấy thuốc ra hút. Anh đan hai bàn tay dài quanh đôi ống chân mảnh khảnh, nghĩ ngợi mông lung. Anh có vẻ của một người chán chường, cáu gắt bất ngờ. - Tất cả đàn ông à! - Không phải sao? - Chắc chắn là không phải tất cả chúng tôi… Còn phải đi bao xa nữa? - Chừng hai cây số. - Không, không phải tất cả đàn ông.. Cô không nên nói thế. Thiếu phụ không nói gì. Vượt khỏi khu rừng, con đường đưa hai người băng qua cánh đồng. Buổi chiều buông xuống lặng lẽ và một nỗi buồn dịu dàng, trầm ngâm lan trùm mặt đất. Những con cun cút đầu tiên cất tiếng kêu. Người đàn ông hút thuốc, ngắm gương mặt nhìn nghiêng của thiếu phụ. - Cô là một người đàn bà tuyệt vời - Anh nói một cách giản dị và bất ngờ - Tên cô là gì? - Nina. - Nina, cô là một người đàn bà tuyệt vời. - Hứ!... - Thiếu phụ không quay về phía anh. Trong cách ngoảnh mặt đi của cô lộ vẻ bẽn lẽn và hân hoan, một niềm hân hoan thầm lặng, khó quên. - Tôi sẽ vẽ cô. - Ông muốn nói gì đấy? - Nina quay về phía họa sĩ rồi lại ngoảnh đi ngay. - Ấy, vài nét về cô… Bức tranh sẽ được gọi là Nước mắt chim cu. - Trời! - Nina chỉ có thể kêu lên như thế. Họ im lặng hồi lâu. - Ông tên gì? - Nina hỏi. - Xécgây. - Ông sẽ ở lại đâu? - Tôi không biết… - Ông có thể đến nhà tôi. Chỉ có mẹ và tôi. Nhà rộng lắm, nửa căn còn trống và ở ngay cạnh dòng sông. Xécgây không trả lời ngay. - Ấy, cô xem… Cô không bị xúc phạm chứ? - Ôi, bỏ qua đi. Ông biết hổ thẹn là quí lắm rồi - Cô chúi người về phía trước và dùng dây cương quất vào ngựa. Chiếc xe chồm lên, kêu ầm ĩ trên đường. - Nina! - Họa sĩ gọi tên thiếu phụ. - Hả? - Cô không quay lại. - Cô giận à? - Ô, không sao… Quá nhiều phiền toái với đàn ông các anh lắm rồi, hơi sức đâu mà giận. Chúng ta đừng nói chuyện ấy nữa. Làng Bêriôzốpka của chúng tôi kia kìa. Ngôi làng hiện ra lờ mờ trước mặt. Những mái nhà đỏ tía trong tia nắng chói của buổi hoàng hôn như thể đang âm ỉ cháy giữa cánh đồng lúa mới độ chín vàng. - Ông có thể vẽ buổi chiều thế này? - Nina hỏi - Ông xem kìa, thật đáng yêu làm sao! - Phải - Họa sĩ lặng lẽ đáp. Anh ngập ngừng rồi lặp lại - Phải, đáng yêu quá. Và buổi chiều quả là đáng yêu. Vĩnh Quyền dịch từ bản tiếng Anh rút trong tập “I Want to live”, NXB Tiến Bộ, Matxcơva. (7/6-84) |
LTS: Mario Bendetti sinh tại Paso de los Toros (Tacuarembó ) ngày 14 tháng 9 năm 1920. Ông theo học tại trường tiểu học tiếng Đức ở Montevideo và trường trung học Miranda, đã từng làm nhiều nghề như nhân viên bán hàng, tốc kí, kế toán, viên chức nhà nước và phóng viên. Từ năm 1938 đến 1941 ông sống chủ yếu ở Buenos Aires . Năm 1945, khi trở về Montevideo, ông viết bài cho tuần báo nổi tiếng Marcha, qua đó trở thành phóng viên bên cạnh Carlos Quijano và rồi trở thành một thành viên trong ê-kíp của ông này cho tới tận năm 1974 khi tuần báo ngừng xuất bản.Năm 1973, vì lí do chính trị, ông phải rời bỏ tổ quốc,bắt đầu cuộc sống lưu vong kéo dài mười hai năm ở những quốc gia: Ác-hen-ti- na và Tây Ban Nha. Quãng thời gian này đã để lại những dấu ấn vô cùng sâu sắc trong cuộc đời ông cũng như trong văn nghiệp.
YUKIO MISHIMA (Nhật Bản)YUKIO MISHIMA tên thật là HIRAOKA KIMITAKE (1925-1970). Sinh tại Tokyo.Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Tokyo . Nhà văn, kịch tác gia, đạo diễn sân khấu và điện ảnh, diễn viên.Năm 16 tuổi đã xuất bản truyện vừa lãng mạn Khu rừng nở hoa. Tiểu thuyết Lời thú tội của chiếc mặt nạ ra năm 1949 đã khẳng định tên tuổi của nhà văn trẻ tài năng và trở thành tác phẩm được đánh giá là kinh điển của nền văn học Nhật Bản.
KOMASHU SAKIO (Nhật Bản)Sinh 28/1/1931 tại Osaka (Nhật Bản). Nhà văn chuyên viết truyện khoa học giả tưởng nổi tiếng của Nhật Bản.Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Kyoto , chuyên ngành Văn học Italia.Từ năm 1957 là phóng viên Đài Phát thanh Osaka và viết cho một số các báo. Năm 1961 chiến thắng trong cuộc thi truyện ngắn giả tưởng xuất sắc do tạp chí "SF Magasines" tổ chức.Tác phẩm của Komatsu đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
S. MROZEK (Ba Lan)Có lần tôi bắt gặp một con chó ác bụng đang rượt đuổi một con mèo. Bởi tôi là người yêu động vật nên tôi bèn vớ ngay một cục đá to sụ quẳng vào con chó khiến nó ngã lăn quay, nằm đứ đừ một hồi lâu. Chú mèo nhỏ không nhà, con vật bé xíu nom mệt phờ râu. Không chút do dự - tôi cho nó nương nhờ. Đây quả là một con mèo đẹp mã, lông mịn màng, mắt long lanh. Tôi đem nhốt nó vào trong nhà, đoạn bỏ đi chơi bời trác táng.
KITA MORIO (Nhật Bản)Kita Morio (sinh năm 1927) là nhà văn thuộc thế hệ hậu chiến của Nhật Bản. Tốt nghiệp Đại học Y. Năm 1960 được trao giải thưởng mang tên Akutagawa với truyện ngắn Trong bóng tối đêm, cốt truyện xảy ra trong một bệnh viện tâm thần ở Đức thời kì Chiến Tranh Thế Giới thứ II. Nổi tiếng với các tác phẩm giả tưởng khoa học và chống chiến tranh.
SINCLAIR LEWISLGT: SINCLAIR LEWIS (1885 - 1951, giải thưởng Nobel 1930)Ông là tiểu thuyết gia, người viết truyện ngắn có tiếng và nhà viết phê bình có uy tín ở Mỹ.
BRUNO LESSINGLGT: Bruno Lessing (1870-1940) sinh tại New York, Mỹ. Tên thật của ông là Rudolp Block nhưng ông nổi tiếng với tư cách là nhà văn chuyên viết truyện ngắn dưới bút danh Bruno Lessing. Ông là phóng viên và sau đó là biên tập viên cho nhiều tờ báo. Mô tả của Lessing về cuộc sống của người Do Thái ở New York được đánh giá cao. Truyện dưới đây được dẫn dắt một cách hấp dẫn, lý thú, làm nổi bật mối quan hệ giữa hai thế hệ: cha và con, vấn đề nhập cư, đồng hóa hay giữ bản sắc văn hóa với một giọng điệu dí dỏm.
JUAN JOSÉ ARREOLA (Sinh 1918, Nhà văn Mêhicô)LGT: Arreola là một nhà cách tân lớn về truyện kể. Là một người tự học tài năng, ông sở đắc một nền văn hoá rộng lớn, cũng như trải qua nhiều nghề khác nhau để kiếm sống. Arreola chủ yếu sáng tác những truyện kể ngắn, cô đúc, mỉa mai, hay bí ẩn, ưa thích cái nghịch lý và ông là một trong những bậc thầy của hình thức truyện ngắn này. Ba tuyển tập truyện ngắn của ông là Varia Invencion (1049), Confabulario (1952), Confabulario Définitivo (1087).
KAWABATA YASUNARI LGT: KAWABATA YASUNARI (1899 - 1972) là nhà văn đầu tiên của Nhật Bản đoạt giải thưởng Nobel văn chương (1968). Ông nổi tiếng thế giới với những tiểu thuyết như: Xứ Tuyết (1935 - 1947), Ngàn cánh hạc (1949), Tiếng rền của núi (1950), Người đẹp say ngủ (1961), Cố đô (1962)...
MATVEEVA ANNALGT: MATVEEVA ANNA (Sinh 1975) là một nhà văn nữ trẻ của văn học Nga đương đại tài năng đầy hứa hẹn. Đã xuất bản một số tập truyện ngắn. Truyện ngắn của cô đã được đăng trong các tạp chí lớn của Nga như Thế giới mới, Tháng Mười. Văn xuôi của cô hóm hỉnh, thể hiện sự tò mò sắc sảo trước cuộc sống và con người. Tác phẩm của cô được xem như thể hiện một số sắc thái và đặc điểm của văn xuôi hậu hiện đại Nga hiện nay. Xin trân trọng giới thiệu truyện ngắn “Con chó” dưới đây của nữ văn sĩ qua bản dịch của nữ dịch giả Đào Tuấn Ảnh.
YVELINE FÉRAYLTS: Monsieur le paresseux là cuốn tiểu thuyết lịch sử dày gần 300 trang của nữ văn sỹ Pháp Yveline Féray viết về Đại danh y Việt Nam Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, do Nhà xuất bản Robert Laffont ở Paris ấn hành năm 2000. Trước đó, năm 1989 nữ văn sỹ này đã cho xuất bản ở Pháp cuốn tiểu thuyết dày 1000 trang Dix mille printemps, viết về Nguyễn Trãi - nhà chính trị, quân sự lỗi lạc; nhà thơ lớn của Việt Nam ở thế kỷ XV.
MARSEL SALIMOV (LB NGA)Đất nước ta quá giàu! Vì thế tôi nảy ra ý định muốn cuỗm một thứ gì đó. Những tên kẻ cắp ngày nay chả giống như trước đây. Chúng không thèm để mắt đến những thứ lặt vặt. Cả một đoàn tàu bỗng dưng biến mất tăm! Những nhà máy không thể di dời được, thế nhưng người ta lại nghĩ ra kế chiếm đoạt chúng. Nghe đồn nay mai người ta sẽ bắt đầu chia chác cả đất lẫn nước!
AKILE CAMPANILE(Nhà văn Italia)LTS: Số Tết này, TCSH chọn một truyện ngắn hài hước của một nhà văn Ý, có nhan đề “Ngón nghề kinh doanh”, qua bản dịch của dịch giả nổi tiếng Lê Sơn, để bạn đọc có dịp thư giãn trong dịp đầu Xuân.
HERMANN HESSE Tương truyền thi nhân người Tàu tên Han Fook thuở thiếu thời chỉ thao thức với một khát khao kỳ diệu là muốn học hết mọi điều và tự rèn luyện mình đến hoàn hảo trong tất cả các môn liên quan đến nghệ thuật thi ca.
OLGA TOKARCZUK (Nữ nhà văn Ba Lan)LGT: Nữ văn sĩ Ba Lan Olga Tokarczuk sinh năm 1962 tại Sulechow, Ba Lan. Bà là nhà văn “hậu hiện đại” và “nữ quyền”. Năm 1979 những truyện ngắn đầu tay của bà được đăng tải trên Tạp chí Thanh niên, năm 1989 những bài thơ đầu tay được in trong các tạp chí “Rađa” và “Đời sống văn học”.
NADINE GORDIMER ( Phi), Giải Nobel 1991LGT: Nữ văn sĩ Nadine Gordimer sinh năm 1923 tại Phi. Bà cho in truyện ngắn đầu tay năm 15 tuổi và tiếp tục nghề văn khi còn là sinh viên Đại học Wirwatersrand. Có thời kỳ sách của bà bị chế độ phân biệt chủng tộc Phi cấm đoán. N.Gordimer được trao tặng nhiều giải thưởng văn học, trong đó có giải Nobel văn chương năm 1991.
OLGA TOKARCZUKLGT: Trong số tháng 3 – 2007 (217), Sông Hương đã giới thiệu tới bạn đọc truyện ngắn “Người đàn bà xấu nhất hành tinh” của OLGA TOKARCZUK, một nữ văn sĩ thuộc dòng văn học nữ “hậu hiện đại Ba Lan”. Số báo này, Sông Hương xin giới thiệu tiếp truyện ngắn “Vũ nữ”. Đây là một truyện ngắn độc đáo dựa trên một leimotic “cuộc đối thoại vô hình” giữa người con gái và người cha, láy đi láy lại đến 6 lần, thể hiện cuộc chiến đấu âm thầm dữ dội, tự khẳng định mình trong nghệ thuật, chống lại sức mạnh ám ảnh của mặc cảm “bất tài”.
BERNARD MALAMUDLGT: Bernard Malamud sinh năm 1914 tại Brooklyn, New York, lớn lên trong thời kỳ Đại Khủng hoảng Kinh tế, là người Nga gốc Do Thái trong một gia đình bán tạp hoá. Ông đã xuất bản nhiều tiểu thuyết, truyện ngắn và được nhận nhiều giải thưởng văn học.
RADOI RALIN (Bungari)LGT: Đây là một truyện có ý vị sâu xa với các môtíp sự cám dỗ của quyền lực, “sự đồng loã ngây thơ” với tội ác, sự tự nhận thức và tự trừng phạt. Nhưng trên hết là sự vạch trần và tố cáo sự bịp bợm quỷ kế của giới quyền lực. Đây là một truyện ngụ ngôn mới đặc sắc. Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc.
ZACE HAMMERTON (Anh quốc)LGT: Truyện dựng chân dung của một kẻ “Sính khiếu nại” “một cách hài hước, bố của John Peters có “Thú đam mê sưu tập tem”. Cách dẫn chuyện tài tình ở cái chi tiết sự ham mê của anh với một loại tem đặc biệt không đục lỗ chiếu ứng với cái kết bất ngờ của truyện “Có của rơi vào tay mà để vuột mất”. Mời bạn đọc thưởng thức.