Dù thành văn hay bất thành văn thì đối với dân làng, hương ước vẫn rất hiệu lực, thậm chí hiệu lực còn nhanh nhạy hơn cả pháp luật của Nhà nước, bởi vậy mới có câu “phép vua, thua lệ làng”. Chuyện kể rằng ở làng Hà Trung (nay là xã Vinh Hà, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế) có Quan Tiên chỉ, người có công xuất tiền của, huy động dân làng đắp đập (đê) Bàu Ô, lấn phá Cầu Hai để tạo ruộng cho dân cày (rộng gần 2000 ha, nay dân xã Vinh Hà đang thụ hưởng). Khi con đê vừa hoàn thành, để bảo vệ con đê khỏi trâu băng, bò dẫm, ông cùng dân làng lập ra hương ước, thỏa thuận cùng nhau, nếu ai để trâu, bò của mình lên đê ăn cỏ thì con trâu, bò đó bị dân làng bắt giết thịt và gia chủ còn phải nộp phạt đủ để sắm xôi, rượu khao cả dân làng. Để hương ước được thực thi một cách nghiêm minh, ông ngầm sai gia nhân đánh một con trâu của nhà mình lên đê ăn cỏ, khi tuần đê phát hiện liền chạy đến báo cáo với Quan Tiên chỉ, ông vờ hỏi như quát: - Ai to gan, dám để trâu lên dẫm trên đê, trâu của ai? Tuần đê rụt rè, lễ phép: - Dạ thưa, trâu của Quan Tiên chỉ ạ! Ông liền hạ giọng: - Té ra rứa à! Pháp bất vị thân, dân làng cứ bắt trâu làm thịt, phần tui, xin nộp phạt theo lệ của làng, việc sai phạm của gia nhân, tui sẽ hành xử theo gia quy để răn dạy chúng. Sau bữa rượu, thịt vui say, dân làng bàn tán xôn xao, “trâu của quan mà còn như rứa, huống hồ là trâu của dân”, nên mọi người đều khiếp sợ, từ đó không bao giờ có ai dám cho trâu lên ăn cỏ trên đê, lệ làng đó còn hiệu lực đến cả hàng trăm năm, cho đến nay vẫn còn truyền tụng. Cũng chuyện gần xưa, thuở tui còn nhỏ, trâu bò từ nhà ra đồng, ra đôộn (động cát) chỉ được phép đi theo đường đã được quy định, mà thông thường là dọc theo dưới những lòng con khe, ý thức của người chăn dắt cũng biết phận mình, đi quen thành lệ, không bao giờ dám cho trâu bò đi lên trên đường xóm, đường làng. Xuân sang hạ chí, dân làng năm giới cùng đào khe, vét rãnh, vệ sinh đường sá, chặt cây tỉa cành cho đường sá sạch sẽ, thông thoáng, nước thoát dễ dàng để khỏi phá bờ phá đập. Theo ngày đã định, nghe ba hồi trống cả năm giới, nam phụ lão ấu tập trung, người cuốc kẻ cào, người mác kẻ rựa, mỗi người một việc, không ai bảo ai, thi nhau thực hành phận sự công dân của làng, các cụ cao tuổi thì chống gậy đi theo thốc trống, đốc chiêng, đôn đốc cháu con. Ngày tết tuy nghèo, nhưng làng trên xóm dưới đều vệ sinh quang đãng Ngày nay, dọc những con đường qua các miền quê, kể cả quốc lộ, tỉnh lộ, huyện lộ, xã lộ hay đường xóm, đường làng, nhờ ơn Chính phủ và những người hảo tâm đa phần đã được rải nhựa hoặc bê tông hóa, nhiều lúc người ta bắt gặp cả đàn trâu, bò hiên ngang đi giữa con đường, chặn hết cả lối đi của khách bộ hành, người chăn dắt thì vẫn cứ thản nhiên như chẳng có chuyện gì, mặc cho khách bộ hành vô cùng run sợ; phân trâu, phân bò phóng uế bừa bãi giữa đường là điều không hiếm, thấy người xung điện bắt cá, hủy hoại môi trường thì cũng làm ngơ; thấy kẻ trộm chó mèo, vịt gà cũng không dám nói; người phàn nàn trách móc thì nhiều, còn người có trách nhiệm áp dụng các biện pháp ngăn chặn thì sao mà quá hiếm, người có chức trách không phải lúc nào cũng gặp cảnh này, còn người mắt thấy tai nghe thì cũng không rảnh để đi cấp báo kịp thời với cấp có thẩm quyền nhằm tìm cách ngăn chặn, dân qua đường thì nghiến răng cầu mong cho sớm thoát cảnh ách tắc hành trình, dân địa phương trong xóm, ngoài làng ngó trước nhìn sau đều bà con quen biết, dù thấy điều sai trái, quá gai mắt chướng tai mà nói họ cũng cho là lẻo mép, xoi móc hương lân, chi bằng lặng tiếng im hơi cho yên thân và được tiếng là xóm giềng thân thiện, thế là mọi người cứ bỏ mặc, bàng quan, ai làm gì thì làm, miễn không đụng đến lợi ích của mình là được. Lệ làng là pháp luật của địa phương, thông thường, lệ làng do nhóm quan viên, trưởng lão trong làng khởi xướng, được cộng đồng cư dân đồng thuận đề lên thành lệ và có hiệu lực đối với cả cộng đồng, không miễn trừ cho bất cứ một ai dù là quan hay dân trong cộng đồng cư dân ở đó; quan viên, trưởng lão gương mẫu chấp hành thì dân tâm phục noi theo; quan viên, trưởng lão bất minh thì dân không tâm phục, thượng bất chính hạ tắc loạn, tâm không phục thì dù có bắt buộc cũng cố hành xử chiếu lệ cho xong, nhưng chủ yếu là ngầm chống đối nhằm phá vỡ những lề thói cũ. Ngày nay, nhiều nơi đã xây dựng hương ước của làng mình, thậm chí nhiều hương ước được cấp có thẩm quyền phê duyệt, nhưng xem ra, việc thực thi cũng còn nhiều điều trăn trở. Phàm đã có quy định thì phải có chế tài, ai có công thì được thưởng, ai có tội thì phải hành, có như vậy mọi người phải tránh điều bị phạt, cố gắng lập công thì cộng đồng cư dân mới ngày càng gắn kết. Các hương ước hiện nay đa phần là nêu quy định, còn chế tài thì dựa vào pháp luật của Nhà nước, đề ra những chế tài mới thì sợ vi phạm pháp luật của quốc gia, còn những điều đã có chế tài xử phạt theo pháp luật hành chính thì cấp có thẩm quyền xử phạt hành chính ở địa phương phải là chủ tịch UBND và trưởng công an xã hoặc chiến sĩ các cơ quan chức năng khi làm nhiệm vụ mới có thẩm quyền. Khổ nỗi, chuyện hương thôn đâu phải cái gì cũng chạy lên cáo với xã phường; các vi phạm trên huyện lộ, tỉnh lộ, quốc lộ là chuyện của công an và của cơ quan chức trách giao thông; vi phạm trật tự, trị an trong xóm, trong làng là chuyện của công an thôn và của ông thôn trưởng, nhưng éo le là đâu phải vi phạm nào công an cũng bắt gặp, mà nếu có gặp thì cũng chưa từng thấy công an xử phạt kẻ giữ trâu, bò đa phần “quần rách áo ôm”, truy cho ra chủ của trâu, bò, nguồn nguy hiểm tự do rong ruổi trên đường để liên đới chịu trách nhiệm thì cũng chưa ai làm như vậy, còn như trưởng thôn bắt gặp trâu băng, bò giẫm trong đường xóm, đường làng thì cũng chẳng có quyền xử phạt được ai, giỏi lắm thì cũng nhắc nhở, khuyên răn lần sau đừng tái phạm; hành xử như vậy nên pháp luật bị nhờn, còn hương ước của làng ngày càng trở thành vô hiệu. Làm cách nào để hương ước được cộng đồng dân cư tôn trọng, có giá trị trường tồn, bền vững ở địa phương? Rất nhiều luồng ý kiến khác nhau như phải đưa các chế tài nghiêm khắc vào các hương ước của các làng, phải phân cấp cho tập thể dân làng phân xử những điều đã định ra trong hương ước, hoặc phải phân cấp cho cán bộ ở thôn bản có quyền xử phạt, phải giáo dục ý thức văn hóa cộng đồng, những người trưởng lão phải gương mẫu chấp hành và phải thường xuyên nhắc nhở cháu con làm điều phải, điều thiện, tránh điều ác, biết chung lưng đấu cật, chung tay góp sức xây dựng hương thôn... Văng vẳng bên tai điều lý giải giản đơn của người dân Hà Trung còn truyền tụng đến bây giờ: “trâu của quan mà còn như rứa, huống hồ là trâu của dân”. TÂM VĂN (265/3-11) |
Nhà văn Bùi Anh Tấn nổi tiếng hiền lành, ai nói gì ông thường cười cho qua. Thế nhưng mới đây, tác giả Một thế giới không có đàn bà đã tỏ rõ sự bực bội vì chuyện nhuận bút.
Thuở hàn vi, nhà sử học, nhà văn Ngô Thì Sĩ (1726 - 1780) “túi rỗng bếp lạnh”, “một đồng tiền cũng chẳng dính tay” có viết Bài văn trách ma nghèo tuyệt hay.
Được mệnh danh là nhà thờ lớn và đẹp nhất vùng Đông Bắc Việt Nam, nhà thờ Trà Cổ (TP Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh) đã bị phá bỏ ngày 9/3/2017 để xây mới.
Thời gian qua, vấn đề dạy chữ Hán (tức mảng từ Việt Hán) trong nhà trường được báo chí đề cập nhiều lần và dư luận quan tâm.
Khi nhắc đến tranh chép hay công việc chép tranh, nhiều ý kiến khắt khe cho rằng, chính những bức tranh chép đã làm lũng đoạn thị trường hội họa và ảnh hưởng xấu đến nền mỹ thuật nước nhà.
Nhờ facebook, tôi mới biết ngày hôm qua là Ngày Hạnh phúc. Chợt bần thần nhớ lại những kỷ niệm về hạnh phúc, vào cái thời ở ta chưa có ngày nào được gọi là Ngày Hạnh phúc...
Chúng ta không im lặng, chúng ta phải lên tiếng trước những điều tồi tệ, vô nhân đạo, nhất là khi chúng liên quan đến những đứa trẻ ngây thơ chưa đủ nhận thức để tự bảo vệ mình. Nhưng...
Mạng xã hội đang ngày càng phổ biến trong đời sống và không chỉ là kênh kết nối chia sẻ, giao lưu giữa các cá nhân. Trên thực tế, mạng xã hội đang có những tác động lớn đến hoạt động kinh doanh của các tổ chức, doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Sức hút của “lễ hội hoa hồng” đang diễn ra ở Hà Nội có lẽ không ảnh hưởng đến những người làm văn nghệ. Họ đang quan tâm tới những thông tin xung quanh việc xét giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Hình như chưa đợt xét giải thưởng nào lại náo động như lần này.
Đó là những trăn trở của Chủ tịch UBND TP.HCM Nguyễn Thành Phong tại buổi làm việc với Sở Văn hóa Thể thao, Sở Du lịch cùng giám đốc các bảo tàng trên địa bàn TP hôm 2.3.
Nhiều bức tường xám xịt, loang lổ nắng mưa trên các con hẻm, con đường Sài Gòn đang được các “họa sĩ đường phố” khoác lên những sắc màu mới.
Trong dịp tết vừa qua, tại TPHCM, sàn diễn cải lương khá heo hút. Ngoại trừ chương trình nghệ thuật Ba thế hệ về lại cội nguồn do NSƯT Kim Tử Long đứng ra thực hiện, có bán vé tại rạp Công Nhân vào ngày 6-2, cùng với vài buổi diễn của các nghệ sĩ Nhà hát Cải lương Trần Hữu Trang ở cơ sở thì không còn nơi nào tổ chức.
Nhiều tác giả cám cảnh người đọc đìu hiu ở các khu trưng bày tác phẩm trong Ngày thơ Việt Nam lần thứ 15 tại TP HCM.
GS Đỗ Quang Hưng, Chủ nhiệm Hội đồng tư vấn về Tôn giáo - UBTƯMTTQ Việt Nam và TS Trần Hữu Sơn - Phó Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam đều cho rằng: "Lễ hội không có tội mà một bộ phận con người đã lợi dụng và làm hỏng nó đến mức này như một căn bệnh trầm kha khó chữa đã 15 năm nay".
Nhiều người trẻ cả tin, mê tín “cúng” tiền cho thầy bói để rồi lo âu, thấp thỏm...
VĨNH AN
Trong bài viết trên báo Nhân dân số 2082, ngày 28/11/1959, ký tên Trần Lực, Bác Hồ đã phát động “Tết trồng cây”: “Chúng tôi đề nghị tổ chức một ngày “Tết trồng cây”. Việc này ít tốn kém mà lợi ích rất nhiều”.
Văn Miếu - Quốc Tử Giám những ngày này gây sốt bởi di tích rêu phong được thay bằng màu xám trắng mới tinh. Mặc lời trấn an của những người có trách nhiệm, công chúng vẫn có quyền đặt câu hỏi.
“Tại sao trong lựa chọn giữa bảo tồn và phát triển đô thị thì phần thua thiệt thường rơi về phía bảo tồn?”, TS khảo cổ học Nguyễn Thị Hậu đặt câu hỏi trong Hội thảo quốc tế Việt Nam học ngày 15 - 16.12 tại Hà Nội.
Thiết chế văn hóa đang hàng ngày, hàng giờ đồng hành với đời sống nhân dân và là một phần không thể thiếu của xã hội. Có thể kể đến một số thiết chế văn hóa phổ biến ở đô thị nước ta như bảo tàng, thư viện, nhà hát, rạp chiếu phim…
Sự biến mất của Hanoi Cinémathèque, một địa chỉ xem phim nghệ thuật đã có lịch sử gần 15 năm giữa lòng thành phố, đặt ra câu hỏi về sự thân thiện và nhạy cảm với văn hóa của các chính sách phát triển đô thị.