Nhớ Hải Bằng và Trăm năm rừng cũ

15:32 13/04/2023

NGUYỄN QUANG HÀ

Năm 1947 có hai chiến sĩ được cử về công tác tại chiến khu Ba Lòng. Đó là Trần Quốc Tiến, quê Quảng Trị và Hải Bằng, quê Thừa Thiên.

Ảnh: tư liệu

Vừa gặp, hai người đã thân thiết với nhau, trở thành đôi bạn tri âm tri kỷ. Hải Bằng đã làm thơ về họ:

Mi Tấn Hoài tức là Trần Quốc Tiến
Tao Văn Tôn rồi cũng gọi Triều Dương
                                   
(khổ thơ 18)

Họ sống quấn quýt với nhau, với chiến khu tràn đầy kỷ niệm. Năm năm sau, chiến khu Ba Lòng đã phát triển, Phòng Chính trị Phân khu Bình Trị Thiên, giữa mùa hè 1952 chuẩn bị rời đây để đến chiến khu khác. Hải Bằng và Trần Quốc Tiến cũng chuẩn bị về Trung đoàn 95 theo mùa chiến dịch.

Xúc động vì phải chia tay chiến khu, hai người bạn đã hẹn nhau: mỗi người viết một bài thơ với đầu đề chung là Trăm năm rừng cũ, rồi cho bài thơ ấy vào hũ sành chôn xuống ở bờ sông Ba Lòng. Mong sau này con cháu đào lên sẽ hiểu về chiến khu Ba Lòng (Quảng Trị) và những chiến khu khác… thời kháng Pháp như thế nào:

Phanh áo ra, bên suối chiều vội viết
- Rừng trăm năm sau, rừng trăm năm sau…
Chữ vội gieo, thương lòng ta chẳng khép
- Rừng trăm năm sau, rừng trăm năm sau…
                                   
(khổ thơ 2)

Trăm năm sau, con cháu tìm và đào được hũ sành đựng hai bài thơ, đọc lại thơ, ông hy vọng người trẻ sẽ theo thơ, cùng về Ba Lòng với ông như bấy giờ:

Đây Ba Lòng, nhớ những chiến khu hùng vĩ
Mái nhà sàn, tiếng cối gạo chuyền tay
Nắng Câu Nhi lọc đêm trăng Hòa Mỹ
Đeo chiếc gùi xanh biếc ngọn tàu bay…
                                   
(khổ thơ 7)

Hình ảnh nhà sàn, giã gạo bằng tay, không có ba lô, mà đeo cái gùi ngụy trang bằng ngọn tàu bay. Gọi là chiến khu, không có gì hiện đại, không có điện, cũng không có đồng hồ, mà:

Đêm đã khuya lửa còn âm ỉ cháy
Chim từ quy còn gõ mõ cầm canh
Có tiếng gì trong tim ta thức dậy
Lá động rừng lay tấm áo thêm xanh.
                                   
(khổ thơ 11)

Gọi là chiến khu, sống trong hầm hố và một mái lều tranh, nên rất lo thời tiết, lo mưa trút xuống ngập rừng:

Ở đây lo bao mùa mưa lũ
Xa Ba Lòng mấy bận, tạm chia tay
Đò Bến Trấm đưa ta lên rừng cũ
Nắng “tơ hồng” bắc nhịp tiếp đường dây…
                                   
(khổ thơ 12)

Mưa ngập đường phải lên “rừng cũ” bằng đò, đủ biết cuộc sống ở chiến khu thời ấy vất vả như thế nào. Đến với mô tả của Hải Bằng và Tấn Hoài, chúng ta sẽ hiểu thêm: Chiến khu là một tổ chức hành chính và quân sự của một địa phương, không tự lo được về kinh tế. Cuộc sống phải tính toán từng bữa ăn, không có gạo, chỉ có sắn khoai:

Ta thương nhau nặng tình khoai sắn
Bằng bài thơ lửa trại chiến công qua
Áo trấn thủ đã thay mùa nắng ấm
Đêm Ba Lòng cất nỗi nhớ cho ta…
                                   
(khổ thơ 19)

Đến nỗi nhớ cũng phải cất đi thử hỏi còn tâm trạng gì sâu sắc trong lòng nữa. Bài thơ Trăm năm rừng cũ có kể tới nhiều bữa ăn, nhưng không nói bữa nào nấu cơm bằng gạo, chỉ có khoai sắn thay cơm. Ăn đã vậy, đến cái mặc cũng rất bộn bề:

Ta thả bóng chảy ngầm trên sông tạnh
Suốt trời sao gợn ánh nước dòng xuôi
Áo ta rách, trăng khâu từng mảnh
Thơ lại về trôi dọc bến yên vui…
                                   
(khổ thơ 22)

Bộ đội chúng ta ở chiến khu áo thì rách, chân không có giày để đi, chỉ có duy nhất một thứ hỗ trợ cho bàn chân, đó là dép cao su. Tác giả đã không quên nhắc tới chi tiết này:

Sương lên men, núi bốc tràn hương rượu
Ta với rừng bừng cháy giữa thiên nhiên
Dép cao su bền bước đi vĩnh cửu
Thúc đường dài mau đến tận niềm tin
                                   
(khổ thơ 28)

Khó khăn và vất vả tràn đầy, nhưng bộ đội không một ai rời bỏ đội ngũ của mình. Niềm vui của người lính lúc này là tình cảm quân dân rất tha thiết. Giấc ngủ của các anh bên tiếng cót két của võng đưa vẫn êm đềm:

Tạm chia tay mẹ nghèo bên Khe Trữa
Ta mãi hòa tiếng võng đẫy rừng trưa
Bà ru cháu, gió ru bà bên cơ thể
Gọi ta vào giấc ngủ thuở xa xưa
                                   
(khổ thơ 26)

Các anh coi làng xóm trong chiến khu thân thiết như quê hương của mình, dù lúc đó là chiều hay đêm khuya. Nhìn mái nhà xiêu của người dân, trái tim các anh đập mạnh. Đúng như các anh ví von: dân như nước quân như con cá bơi lội trong dòng nước ấy:

Đây Đá Nổi qua sông thuyền độc mộc
Đây Đá Nầm chiều lạnh tiếng mang kêu
Đây Làng Hạ vui khi trăng vừa mọc
Và nơi đây - đâu nữa - mái nhà xiêu…
                                   
(khổ thơ 13)

Bóng dáng người thiếu nữ vẫn là niềm vui của các anh. Dẫu chỉ là một cái tên gọi cũng đủ làm các anh xúc động. Chỉ một chi tiết nhỏ ấy thôi đủ biết các anh yêu cuộc đời rất nồng nàn. Các cô gái ở đây được các anh gọi là Tiên nữ:

Hỡi Phong Thanh! Tên bến đò hay tên em đó?
Ta mãi nghe tiếng lửa hát bập bùng
Mây trôi sông tỏa bóng bầy tiên nữ
Lọc lá ngàn, dòng trổ nắng chiều lưng
                                   
(khổ thơ 14)

Dẫu trong hoàn cảnh nào các anh cũng rất tự hào về bản chất người lính của mình:

Dấu chân đi, dọc ngang đường kháng chiến
Ta lớn lên trong sức mạnh chiến trường
                                   
(khổ thơ 18)

Dép cao su bền bước đi vĩnh cửu
Thúc đường dài mau đến tận niềm tin
                                   
(khổ thơ 28)

Giữ vững niềm tin ấy là lúc nào các anh cũng nhớ về người mẹ của mình. Đúng như một nhà thơ có viết: “Nếu không có tình yêu của mẹ/ Trái đất này không hiểu sẽ ra sao”. Tình mẹ như một lẽ sống:

Những đêm xa, thương mẹ già thao thức
Nghĩ gì ta, qua bao tiếng thở dài
Chiều xuống bến, nhìn theo dòng nước
Mơ bông rừng lấp lánh sóng mây trôi…

 

Chúng con nguyện giữ nguồn tin của mẹ
Đến ngày về mang lời hẹn về theo
Xiết tay nhau, Bình Trị Thiên hùng vĩ
Núi Ba Lòng nuôi ánh mắt tin yêu
                                   
(khổ thơ 9, 10)

Mẹ là máu thịt của mình, song chính mẹ là nhân dân vậy. Cái vĩ đại của nhân dân là cống hiến hết thảy cho Cách mạng. Con lớn lên thì cho con vào bộ đội. Đóng thuế để lấy gạo nuôi quân. Những người dân ở vùng du kích thì nuôi quân du kích, làm trinh sát cho du kích. Có những người mẹ trở thành mẹ anh hùng. Hiểu điều đó cho nên Hải Bằng và Trần Quốc Tiến ca ngợi nỗi nhớ mẹ, nhớ nhân dân và nỗi nhớ chiến khu thiêng liêng của người chiến sĩ:

Ba Lòng ơi! Rừng cho ta nỗi nhớ
Núi cho ta ngang tầm vóc cuộc đời
Ta đón nhận như hứng vầng trăng tỏ
Tất cả về, căng buồm rộng ra khơi…
                                   
(khổ thơ 32)

Với Hải Bằng ông còn muốn gởi cho thế hệ tương lai nhiều hơn trăm năm, không quên dặn dò con cháu, cháu chắt cùng ông nối tiếp tô bồi thế hệ:

Cháu chắt ơi! Cố là Tôn - thi sĩ
Của rừng xanh từ độ ấy - trăm năm
Hãy nối đuôi để tô bồi thế hệ
Cho kiếp sau thơ chẳng phai tàn
                                   
(khổ thơ 34)

Hũ thơ Trăm năm rừng cũ chôn bên bờ sông Ba Lòng đã 70 năm, đến nay vẫn chưa được đào lên. 70 năm qua, Hải Bằng và Trần Quốc Tiến đã trở thành nhà thơ, nhà văn, họa sĩ và nay cả hai đều về cõi vĩnh hằng, khát vọng của các anh đang còn đó - vẫn còn đó.

Tổ tiên ta dạy rằng “ôn cố tri tân”. Rất mong người Ba Lòng tìm thấy hũ thơ bên bờ sông, đọc đầu đề chung là Trăm năm rừng cũ để nối hành trình từ thuở khai thiên đến chiến khu xưa và một Ba Lòng rạng rỡ như hôm nay, cũng để thỏa mãn khát khao của thi sĩ:

Chuyện tâm tình giao ngày xanh ngọn lá
Trăm năm sau quả vẫn toả hương nguồn
Rừng hãy đợi ta về bên
Râu bạc phờ tựa bóng cả hoàng hôn…

 

N.Q.H
(TCSH409/03-2023)

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • 50 năm ngày mất Giáo sư Đặng Văn Ngữ

    ĐẶNG NHẬT MINH

  • Nhân 110 năm ĐÔNG KINH NGHĨA THỤC (1907 - 2017)   

    TRẦN VIẾT NGẠC

  • NGUYỄN HOÀNG THẢO

    Trước khi có chợ, bên ngoài cửa Ðông Ba (cửa Chánh Đông) dưới thời vua Gia Long có một cái chợ lớn mang tên “Qui Giả thị” - chợ của những người trở về.

  • NGUYỄN KỲ

    Cuộc vận động tranh cử và “đấu tranh nghị trường” trong thời kỳ 1936 - 1939 do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo là một bộ phận đặc biệt trong cuộc đấu tranh vì quyền dân sinh dân chủ ở Việt Nam.

  • DÃ LAN NGUYỄN ĐỨC DỤ

    Thú thật với độc giả, một trong những điều vui thú nhất của tôi - cho tới nay tôi vẫn say mê - là sưu tầm khảo cứu về Phổ trạng (tức là lai lịch, nguồn gốc...) của các nhân vật lịch sử như Ngô Quyền, Nguyễn Xý, Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Phạm Ngũ Lão, Phạm Sư Mạnh...

  • LÂM QUANG MINH

    Tôi không có vinh dự như nhiều anh chị em cán bộ, dũng sĩ từ miền Nam ra Bắc công tác, học tập hay chữa bệnh, được trực tiếp gặp Bác Hồ, được Bác ân cần động viên dạy bảo, được cùng ngồi ăn cơm với Bác, được Bác chia bánh chia kẹo... như người cha, người ông đối với các con cháu đi xa về.

  • THANH HẢI
            Hồi ký

    Tháng 10 năm 1962, tôi được vinh dự đi trong đoàn đại biểu mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam ra thăm miền Bắc. Lần đó một vinh dự lớn nhất của chúng tôi là được gặp Hồ Chủ Tịch.

  • Giáo sư Bửu Ý, tên đầy đủ là Nguyễn Phước Bửu Ý, sinh năm 1937 tại Huế. Ông vừa là nhà giáo, nhà văn, vừa là dịch giả của các tiểu thuyết nổi tiếng như Nhật kí của Anna Frank, Đứa con đi hoang trở về, Bọn làm bạc giả của André Gide, Con lừa và tôi của Juan Ramón Jiménez; Thư gửi con tin của Antoine de Saint-Exupéry… đăng trên các tạp chí Mai, Văn, Diễn đàn, Phố Văn (trước 1975).

  • I. Nhớ hơn bốn mươi năm về trước, vào khoảng đầu mùa đông năm 1974 - mùa dỡ củ dong riềng - tôi đi chợ Chũ (Lục Ngạn), mua được tập truyện Khúc sông. Trên lối mòn đường rừng, bước thấp bước cao, tôi vừa đi vừa tranh thủ đọc. Ngày ấy, tôi chỉ biết tên tác giả là Nguyễn Thiều Nam, nào có biết đẳng cấp của ông trong làng văn ra sao!

  • Sinh thời, cha tôi – họa sỹ Trịnh Hữu Ngọc, hầu như không bao giờ nhắc đến những năm học vẽ ở Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (MTĐD).

  • HỒ QUỐC HÙNG
    (Thân mến tặng các bạn lớp Văn K9 - Đại học Tổng hợp Huế)

    Ai cũng có kho ký ức riêng cho chính mình như một thứ tài sản vô hình. Ký ức lại có những vùng tối, vùng sáng và lúc nào đó bất chợt hiện lên, kết nối quá khứ với hiện tại, làm cho cuộc sống thêm ý vị.

  • TRẦN VĂN KHÊ
                Hồi ký

    Có những bài thơ không bao giờ được in ra thành tập.
    Có những bài thơ chỉ còn ghi lại trong trí nhớ của tác giả và của đôi người may mắn đã được đọc qua một đôi lần.

     

  • Ngắm nhìn vẻ đẹp tinh khiết của cô nữ sinh Đồng Khánh dưới vành nón Huế, trong chiếc áo dài trắng tinh khôi, không ai nghĩ chỉ ít năm sau ngày chụp bức ảnh chân dung ấy, chị chính là nạn nhân của một chế độ lao tù tàn bạo và nghiệt ngã.

  • Trong quy hoạch một đô thị văn minh, vỉa hè là khoảng công cộng dành cho người đi bộ. Còn theo kiến trúc, vỉa hè là đường diềm, trang trí cho phố phường tạo ra sự hài hòa giữa đường và nhà mặt phố. Người Pháp đã làm những điều đó ở Hà Nội từ cuối thế kỷ 19.

  • TRẦN PHƯƠNG TRÀ

    Hồi những năm 1950, làng Trúc Lâm quê tôi thuộc vùng du kích ven thành phố Huế.

  • QUẾ HƯƠNG

    Ngày 15/7/2017 tới đây, ngôi trường hồng diễm lệ nằm cạnh trường Quốc Học, từng mang tên vị vua yểu mệnh Đồng Khánh chạm ngưỡng trăm năm.

  • THÁI KIM LAN

    Trong những hình ảnh về ngày Tết mà tôi còn giữ được thời thơ ấu, thì Tết đối với tôi là Tết Bà, mà tôi gọi là Tết Mệ Nội chứ không phải Tết Mạ. Bởi vì mỗi khi Tết đến, cả đại gia đình chúng tôi đều kéo nhau lên nhà Từ đường “ăn Tết", có nghĩa quây quần chung quanh vị phu nhân trưởng tộc của dòng họ là bà nội tôi.

  • TRẦN VIẾT NGẠC  

    Báo Xuân xưa nay luôn là số báo đẹp nhất, phong phú nhất trong một năm. Bài vở số Xuân được tòa soạn đặt bài trước cho các cây bút thân quen, nổi tiếng từ mấy tháng trước.

  • NGUYÊN HƯƠNG

    Trong đời, người ta ai cũng nên phải lòng một vùng đất. Cảm giác đó thật đặc biệt, giống như khi ta một mình đi đêm về sáng, bỗng gặp đóa hoa cô đơn thức sớm nở ngoài thềm, thấy thương.

  • BÙI KIM CHI

    Tôi đã rất xúc động. Lòng rưng rưng bồi hồi khi tình cờ nghe được bài hát “Quê hương tuổi thơ tôi” của Từ Huy trong VCD họp mặt Đồng Hương Sịa lần đầu tiên ở Little Sài Gòn, Nam Cali…