Quản lý vỉa hè xưa ở Hà Nội

15:22 06/03/2017

Trong quy hoạch một đô thị văn minh, vỉa hè là khoảng công cộng dành cho người đi bộ. Còn theo kiến trúc, vỉa hè là đường diềm, trang trí cho phố phường tạo ra sự hài hòa giữa đường và nhà mặt phố. Người Pháp đã làm những điều đó ở Hà Nội từ cuối thế kỷ 19.

Phố Tràng Tiền thập niên 1930 - 1940

Cho thuê vỉa hè, dân mặt phố phải dọn vệ sinh

Sau khi chiếm được thành Hà Nội năm 1882, chiếm Hà Nội năm 1883, Công sứ Bonnal đưa ra chủ trương cải tạo khu vực quanh hồ Gươm. Việc đầu tiên, Bonnal cho làm con đường quan trọng từ khu nhượng địa Đồn Thủy (nay tương ứng khu vực phố Phạm Ngũ Lão) vào thành để chở vũ khí, lương thực cho binh lính Pháp đóng ở đây. Con đường bắt đầu từ Đồn Thủy qua Hàng Khảm (nay là Tràng Tiền và Hàng Khay), Tràng Thi đến Cửa Nam rồi vào thành. Đường hoàn thành cuối năm 1885, rộng hơn 10 m, riêng đoạn Tràng Tiền hai bên có vỉa hè được lát gạch, trồng phượng để giảm bớt nắng nóng vào mùa hè ở xứ Bắc kỳ. Và vỉa hè Tràng Tiền là vỉa hè đầu tiên theo kiểu phương Tây ở Hà Nội.

Công việc cải tạo và xây dựng khu phố phía nam hồ Gươm cần nhiều thời gian và tiền bạc. Vì thế đến năm 1889 mới chỉ vài phố quanh hồ Gươm có vỉa hè, song để Hà Nội nề nếp và quy củ, Thống sứ Bắc Kỳ đã ra nghị định quản lý đô thị (đăng trên Công báo ngày 21.4.1890), trong đó điều 1 ghi rõ: “Những phố hiện có và sẽ được tạo nên có chiều rộng lòng đường và vỉa hè được chỉ định”, kèm theo là phụ lục gồm các phố đã có và các phố sẽ mở. Với các phố ở khu vực “36 phố phường”, vỉa hè hẹp nhất cũng phải 3 m, một số phố sẽ là 4 m. Với các khu phố ở phía đông và phía nam hồ Gươm như: Ngô Quyền, Lê Phụng Hiểu, Hàng Bài, Hai Bà Trưng, Trần Hưng Đạo... vỉa hè tối thiểu phải rộng 5 m, phố rộng nhất là 7,5 m.

Để nhà mặt phố hài hòa với vỉa hè, trong Quy chế lục lộ ban hành ngày 21.9.1891 ghi cụ thể: “Vỉa hè rộng 3 m thì bậc cửa ra vào chỉ được phép cao 10 cm, vỉa hè rộng 5 m thì bậc cửa là 15 cm và vỉa hè rộng 7,5 m thì bậc cửa cao 20 cm...”. Bên cạnh đó còn có quy định về chiều cao, cửa sổ, ban công... rất chi tiết. Quy chế cũng quy định: “Tất cả chủ nhà mặt phố, người thuê phải có trách nhiệm dọn vệ sinh hè phố trước cửa nhà, khơi thông rãnh thoát nước, nếu không thực hiện sẽ bị phạt theo các điều của bộ luật Hình sự nước Pháp”. Cũng theo quy chế thì cánh cửa ra vào nhà mặt tiền phải mở vào trong, không được mở ra ngoài để tránh gây thương tích cho người đi lại.

Quy định về vật liệu làm vỉa hè rất cụ thể: “Vỉa hè được lát bằng đá hình vuông khổ 30 x 30 cm, dày 3 cm, trên mặt khía chéo để tránh trơn trượt cho người đi đường. Mép hè là đá xanh chôn sâu xuống mặt đường vừa làm bờ rãnh thoát nước vừa làm vật chắn phòng xe ngựa lao lên hè gây thương tích cho người đi bộ”. Trên vỉa hè bao quanh nhà Godard (nay là Tràng Tiền Plaza), trước lối vào có dòng chữ tiếng Pháp “Khu vực cấm để xe đạp” bằng đá trắng gắn chìm vào vỉa hè.

Để có nguồn vốn bảo trì vỉa hè mà không dùng ngân sách, ngày 20.12.1889, Đốc lý Hà Nội Landes đã ban hành một nghị định cho thuê vỉa hè để dân mở cửa hàng hay bán cà phê với giá 40 xu/m2/năm. Cùng với đó, chính quyền cũng đánh thuế ban công, thuế ô văng. Với biển quảng cáo, nếu là biển phẳng áp vào tường không gây nguy hiểm cho người đi bộ sẽ miễn thuế, nhưng nếu làm nhô ra sẽ thu thuế theo diện tích, số tiền này cũng được đưa vào quỹ bảo trì. Với cây xanh, sở lục lộ chọn cây thân thẳng, rễ cọc, chiều cao trên 10 m mới tỏa tán để đảm bảo tính mạng, tránh thương vong cho người trong mùa mưa bão. Hằng ngày, cảnh sát lục lộ đi tuần, họ đạp xe quanh các phố, nếu phát hiện vi phạm thì xử phạt, nếu không có tiền sẽ đưa về bót.

Đầu thế kỷ 20, số khách sạn hạng sang xuất hiện ngày càng nhiều quanh khu vực hồ Gươm thì chủ khách sạn đã thuê vỉa hè mở quán cà phê dọc theo mái hiên. Không chỉ người Pháp sống ở Hà Nội, khách du lịch châu Âu đến thành phố này rất thích thú khi ngồi uống cà phê vỉa hè ngắm phố.

Thập niên 1930, dân số lúc này đã tăng lên 300.000 người, số lượng xe kéo tăng vọt, xe đạp xuất hiện trên phố nhiều hơn và trở thành phương tiện giao thông cá nhân chủ đạo. Trước sự lộn xộn của phương tiện này, ngày 25.5.1933, Đốc lý Louis Frédéric Eckert ra quy định: “Trước các cửa hàng phải có giá để xe đạp cho khách” (giá làm bằng sắt, hình bán nguyệt, để đưa bánh trước vào). Quy hoạch cũ đã lạc hậu, không còn phù hợp, năm 1936 Toàn quyền Đông Dương Silvestre quyết định cho quy hoạch lại Hà Nội. Trong bản quy hoạch Henri Ceruti được phê duyệt năm 1943, có một phần bắt buộc các trung tâm thương mại phải có chỗ đậu xe cho khách hàng, các bãi đất trống làm bãi đậu xe công cộng. Tuy nhiên, lúc này quân đội Nhật đã chiếm Đông Dương nên quy hoạch không được thực hiện.

Vỉa hè thành “chợ” từ khi nào?

Sau năm 1954, các quy định cũ về quản lý đô thị Hà Nội bị bãi bỏ, nhưng người dân cơ bản vẫn tự giác vệ sinh vỉa hè trước nhà theo nếp đã hình thành trước đó. Việc cho thuê vỉa hè cũng không còn và từ tài sản công do thành phố quản lý vỉa hè đã trở thành tài sản của nhân dân.

Vỉa hè phố Hàng Khay thập niên 1930 - 1940


Khi Mỹ ném bom miền Bắc năm 1964, vỉa hè đẹp đẽ bắt đầu gánh vác một sứ mạng mới. Người ta cho đào các hầm trú bom cá nhân trên hè phố, mỗi hầm rộng khoảng 6 - 8 m. Người đang đi trên đường nếu nghe còi báo động từ nóc Nhà hát Lớn sẽ chui xuống hầm này tránh mảnh bom. Tháng 1.1973, Hiệp định Paris được ký kết, Mỹ phải rút quân khỏi VN và miền Bắc được sống trong hòa bình thì các hầm trú ẩn đa phần bị lấp. Ở các phố trung tâm, xí nghiệp quản lý vỉa hè cho láng xi măng lấp dấu vết hầm nhưng các phố khác thì nó trở thành hố trũng đọng nước mỗi khi trời mưa. Rồi nước sạch dùng cho sinh hoạt thiếu trầm trọng, nước từ đường ống chính không chảy nổi vào các vòi trong nhà nên dân hàng phố đua nhau đào bể trên vỉa hè lấy nước từ đường ống chính. Vỉa hè thành chỗ rửa rau vo gạo, giặt giũ quần áo, tắm táp vào mùa hè, luộc bánh chưng vào Tết Nguyên đán, là khách sạn “đờ la hiên” cho các bác xích lô quê. Vỉa hè các phố xa hồ Gươm lồi lõm, chỗ trơ đất, chỗ còn gạch, lở loét như bị nhiễm trùng.

Suốt thời bao cấp, buổi sáng vỉa hè là chỗ ngồi của mấy bà bán phở gánh, bán bún ốc, bán bánh cuốn, “đầu hè trung tá bơm xe, cuối hè thiếu tá bán chè đậu đen”, là nơi các ông chữa xe đạp chiếm cứ dưới chân cột điện, góc ngã ba ngã tư. Vỉa hè thực sự trở thành nơi họp chợ, vì thế dân gian mới có câu: “Hàng Bè chợ của thương nhân/Vỉa hè chợ của nhân dân anh hùng”. Từ tài sản của nhân dân, vỉa hè dần dần bị các nhà mặt phố cát cứ, biến thành lãnh địa riêng.

Trong lịch sử, vỉa hè Hà Nội không chỉ dành cho người đi bộ mà còn là nơi kiếm sống của tầng lớp thị dân. Dĩ nhiên, xưa dân số Hà Nội ít, phương tiện giao thông không nhiều còn nay thì khác. Đó là một bài toán không dễ cho cơ quan quản lý.

Nguồn: Nguyễn Ngọc Tiến - TNO




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • TRẦN HUYỀN ÂN

  • Tôi thường hay nghĩ về tết gắn liền với hình ảnh của mạ tôi - người thường kể cho tôi nghe câu chuyện tết bằng câu mở đầu: “Hồi nớ, tết là...”.

  • Kinh tặng, hương hồn nghệ sĩ Châu Thành

  • “Những con hổ xám đường 14” là biệt danh mà nguyên Thành đội trưởng Huế Thân Trọng Một dùng để tôn vinh một Trung đội bộ đội địa phương Quận 4 miền Tây Thừa Thiên do A Lơn chỉ huy.

  • Sau cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 9 năm, kết thúc bằng Điện Biên Phủ lẫy lừng, chờ tổng tuyển cử sau Hiệp định Genève hai năm mòn mỏi, quân dân ta còn phải trường kỳ kháng Mỹ dài mấy mươi năm.

  • LÊ XUÂN VIỆT 

    Sau ngày miền Nam giải phóng (Xuân 1975) tôi chuyển công tác từ Đại học tổng hợp Hà Nội vào Huế. Ở thành phố đẹp và thơ, đầy mơ mộng này rất hợp ngành văn mà tôi say mê và theo đuổi từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường phổ thông.

  • PHẠM HỮU THU Nếu không nghe những nhận xét, dù kiệm lời của những vị cựu lãnh đạo địa phương và không trực tiếp kiểm chứng, thú thật là tôi không thể viết về con người này, một con người không chỉ dũng cảm trong chiến đấu mà còn giàu lòng nhân ái đối với đối phương và tận tâm vì nghĩa tình đồng đội. Người đó là ông Lê Hữu Tòng, nguyên Huyện đội trưởng Huyện đội Hương Thủy!


  • Hồng Thế vừa làm thơ vừa cày ruộng ở quê. Cách đây mấy năm, anh có con bò già không cày được nữa, phải bán đi để mua bò mới.

  • TẤN HOÀI        
         bút ký

    Nhà văn Graham Grin có một quyển tiểu thuyết "MỘT NGƯỜI MỸ TRẦM LẶNG".

  • NHẤT LÂM

          Bút ký 

  • NGUYỄN PHÚC ƯNG ÂN
                           Hi ký

    Tôi tỉnh giấc. Ngoảnh sang bên cạnh thấy các bạn đã ngồi dậy. Nằm yên trong bóng đêm, tôi thử tính xem mình đang còn cách Huế mấy cây số.

  • HỮU THU - CHIẾN HỮU
                       Ghi chép

    Cuối năm ngoái, huyện Hương Trà tổ chức khánh thành hồ chứa nước Khe Rưng.

  • THANH THANH

    Thật bất ngờ đọc lại một năm thơ Sông Hương dưới trăng rằm mười bốn chạp rồi ngơ ngẩn bấm đốt tay.

  • HÀ KHÁNH LINH - NGUYỄN KHẮC PHÊ

    Chuẩn bị ra số kỷ niệm 10 năm giải phóng, Tòa soạn Tạp chí Sông Hương đã có kế hoạch phỏng vấn đồng chí Vũ Thắng, ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Bình Trị Thiên, nhưng chương trình làm việc trong tuần của đồng chí văn phòng đã xếp quá chật.

  • PHẠM HUY LIỆU
                     Hồi ký

    Đầu tháng 9/1968 tôi điều trị ở Bệnh viện Binh trạm 34, tỉnh Saravane, Nam Lào. Viện nằm trong thung lũng. Xung quanh nhiều núi cao rừng già nên cũng ít bị máy bay Mỹ quấy nhiễu.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU

    Bắt sáu tên giặc Pháp nhảy dù xuống huyện Phong Điền.
    Ngày 23 tháng 8 năm 1945, Tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở Huế thắng lợi, chiều cùng ngày, tại Sân vận động Bảo Long (về sau đổi gọi là Sân vận động Tự Do), trước hàng vạn đồng bào dự mít tinh, Ủy ban Cách mạng lâm thời tỉnh Thừa Thiên được thành lập và ra mắt, do nhà giáo Tôn Quang Phiệt làm Chủ tịch.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ

    Tôi tỉnh giấc khi trời còn tối, nhưng không sao ngủ được nữa. Không phải vì tiếng động của những guồng máy quay, tiếng những vành thép nghiền vỡ vụn đá và cờ-lanh-ke.

  • TRẦN SỬ kể
    HOÀNG NHÂN ghi

    Chiến tranh du kích ở huyện Hương Thủy trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp đã diễn ra với nhiều hình thức chiến đấu đầy tính chất sáng tạo của toàn dân.

  • NGÔ MINH

    Đối với anh em làm thơ, viết văn ở ba tỉnh Bình - Trị - Thiên trong nhiều chục năm qua, nhà thơ Hải Bằng là người không thể quên! 

  • HỒNG NHU

    Tôi biết anh, đọc anh từ trong kháng chiến chống Pháp, nhưng mỗi người một đơn vị công tác, mãi đến năm 1972 mới gặp nhau. Đó là một ngày mùa hè, bấy giờ Đông Hà vừa mới được giải phóng.