Nhạc sĩ Tôn Thất Lập người con đất Cố đô

08:46 21/10/2021

TRƯƠNG QUANG LỤC  

Lần đầu tiên tôi quen biết nhạc sĩ Tôn Thất Lập là tại thành phố Hồ Chí Minh sau ngày thống nhất đất nước. 

Nhạc sĩ Tôn Thất Lập

Trước đó trong thời chiến tranh, tôi đã từng nghe một số ca khúc của anh trên làn sóng của Đài Tiếng nói Việt Nam. Cùng sinh hoạt trong Hội Âm nhạc thành phố HCM và Hội Nhạc sĩ Việt Nam, chúng tôi thường trao đổi chuyện trò về hoạt động âm nhạc của nhau.

Nhạc sĩ Tôn Thất Lập quê ở Huế, đó là quê nội, còn quê ngoại ở Đà Nẵng. Anh sinh ngày 25/2/1942 ở Đà Nẵng, sau đó ra sinh sống ở Huế.

Cụ thân sinh của anh biết chơi đàn nguyệt. Đêm về khuya ông thường chơi các bài nhạc cổ của đất Cố đô Huế. Cậu bé Lập lúc đó vào tuổi mẫu giáo rất thích nghe bố chơi đàn, nhưng vì trẻ con trong nhà không được thức khuya, nên cậu ta nằm trên giường giả vờ ngủ nhưng tai vẫn lắng nghe tiếng đàn thánh thót trong đêm khuya.

Khi học cấp I ở trường Dục Anh (Tam Kỳ), rồi trường Tiểu học An Cựu (Huế), cậu bé Lập đã tham gia ca hát trong phong trào văn nghệ học sinh. Trong sổ tay cậu ta chép các bài Nắng tươi (Hoàng Quý), Bắc Sơn (Văn Cao), Áo mùa đông (Đỗ Nhuận), Đoàn quân đi (Việt Lang)... Thế là từ khi bắt đầu học tiểu học, Tôn Thất Lập đã bắt đầu tiếp xúc với ca khúc tiến bộ và cách mạng. Khi lên cấp II, học ở trường Nguyễn Tri Phương (Huế), Tôn Thất Lập học nhạc với các nhạc sĩ Tôn Thất Tiết (Vỹ Dạ), Nguyễn Kính (An Cựu)… Rồi cậu ta lại còn học đàn mandoline nữa.

Khoảng 14 - 15 tuổi, đang học cấp 2, Tôn Thất Lập có sáng tác đầu tay, đó là bài Một dòng sông theo nhịp 3/4, lấy cảm hứng từ các bài valse nước ngoài nổi tiếng như Sông Danube xanh (Trauss), Sóng sông Danube (Ivanovici). Bài hát đã được một ca sĩ thời ấy tên là Dạ Ái hát trên đài phát thanh Huế. Năm, sáu năm sau, Tôn Thất Lập chỉnh sửa lại bài Một dòng sông thành bài Lời ca trên miền biển cả được ca sĩ Thái Thanh hát ở Huế và Sài Gòn.

Khi học đại học, Tôn Thất Lập tham gia phong trào sinh viên - học sinh (SVHS) tranh đấu và trong thời gian này anh cũng đã sáng tác nhiều ca khúc cổ vũ cho phong trào. Đầu thập niên 60 thế kỷ trước, ở các đô thị miền Nam liên tục nổ ra các cuộc phản kháng chế độ cũ của trí thức và văn nghệ sỹ. Vào khoảng 1965 - 1966, từ ý thức phản chiến trong ca khúc Trịnh Công Sơn đến tinh thần dấn thân đấu tranh mạnh mẽ trong các ca khúc của SVHS, từ đây hình thành khuynh hướng âm nhạc tiến bộ của lớp trẻ đô thị miền Nam trong đó có Tôn Thất Lập. Trước đó, những sáng tác của anh chưa được phổ biến nhiều, nhưng từ khi có những sáng tác phục vụ phong trào đấu tranh của SVHS, thì tên tuổi của Tôn Thất Lập bắt đầu được quần chúng từ miền Nam đến miền Bắc biết đến.

Từ năm 1966, anh viết khá nhiều, có thể kể đến các ca khúc như Hát cho dân tôi nghe, Đồng lúa reo, Đêm hồng, Đỉnh non cao, Người đợi người, Giao ca… Trong các ca khúc này, bài Hát cho dân tôi nghe được đông đảo quần chúng biết đến, đặc biệt được giới trẻ đô thị miền Nam hưởng ứng nồng nhiệt:

Hát cho dân tôi nghe tiếng hát tung cờ ngày nào
Hát cho đêm thiên thu lửa cháy trên trại giặc thù
Hát âm u trong đêm muôn cánh tay đang dậy lên
Hát cho anh công nhân xiềng xích như mây tan hoang
Hát cho anh nông dân bỏ cày theo tiếng loa vang…


Chính từ ca khúc nổi tiếng này, hình thành nên phong trào “Hát cho đồng bào tôi nghe”, tên gọi gần với tên bài hát. Trong những đêm văn nghệ SVHS, thường xuất hiện bài này. Đặc biệt, tháng 11/1968, nhà thơ Tần Hoài Dạ Vũ, thay mặt Hội đồng sinh viên Liên khoa Huế tổ chức đêm nhạc Tôn Thất Lập tại giảng đường Trường Đại học Khoa học mở đầu phong trào “Hát cho đồng bào tôi nghe”, trong đó bài Hát cho dân tôi nghe được hưởng ứng nồng nhiệt. Đêm Giáng sinh 1969 ở Sài Gòn, tại “khu tam giác sắt” các trường Đại học Văn khoa, Dược khoa, Nông-Lâm-Súc, đã đầy bọn công an chìm nổi, cảnh sát dã chiến trang bị dùi cui, khiên mây, súng phóng lựu đạn cay, mặt nạ đầu heo, nhưng SVHS Sài Gòn vẫn phớt lờ chúng và kéo về đây dự đêm “Hát cho đồng bào tôi nghe”, trong đó ca khúc Hát cho dân tôi nghe cùng với nhiều bài hát đấu tranh khác vang lên thách thức bọn địch. Tại thành phố Đà Lạt, có phong trào hát “Tranh đấu ca” chống chế độ cũ, Hát cho dân tôi nghe là một trong những bài hát đi vào tâm hồn, cuộc sống SVHS Đà Lạt thời ấy.

Để chống lại phong trào đấu tranh này, địch bắt giam một số SVHS. Riêng Tôn Thất Lập bị bắt 2 lần (tổng cộng khoảng 1 tháng) không khai thác được gì, địch phải trả tự do. Năm 1972, anh vào chiến khu, cuối 1973 ra Hà Nội, đầu 1975 sang Pháp để vận động Việt kiều và trí thức miền Nam.

Trong thời gian công tác tại Pháp anh có sáng tác hai bài Nhớ về miền Nam Hướng về quê hương độc lập. Bài thứ hai viết đúng vào đêm 30/4/1975. Trong lễ mừng giải phóng miền Nam tại Pháp sau đó, nhạc sĩ Tôn Thất Lập và nhạc sĩ Nguyễn Thiên Đạo (Việt kiều tiến bộ tại Pháp) cùng song ca bài này với cây guitar thùng.

Sau ngày thống nhất đất nước, Tôn Thất Lập như được chắp cánh trên con đường nghệ thuật, anh đã sáng tác khá nhiều, một số bài phổ biến rộng rãi trong quần chúng. Sau 1975, sáng tác của Tôn Thất Lập được nhiều người biết đến nhất là bài Trị An âm vang mùa xuân. Ta sẽ trở lại tác phẩm này vào cuối bài viết.

Về đề tài tình ca, Tôn Thất Lập viết khá nhiều, đáng chú ý có các bài Tình ca mùa xuân, Tình ca tuổi trẻ, Mưa thì thầm, Tình anh, Tình yêu mãi mãi, Trò chơi… Liên tục trong ba năm 1997, 1998, 1999, bài Tình anh của Tôn Thất Lập là một trong 30 bài hát quy định của Ban tổ chức Cuộc thi Tiếng hát truyền hình thành phố Hồ Chí Minh và từng được nhiều thí sinh chọn để hát dự thi. Hoàn cảnh ra đời bài này đặc biệt: Cách nay đã khá lâu, trong dịp đến thăm một trạm quân y dã chiến ở chiến trường xa, Tôn Thất Lập gặp gỡ trò chuyện với các thương binh đang nằm điều trị ở đây, trong đó có một chiến sĩ trẻ, người ở quận Tư. Anh thương binh này tha thiết yêu cầu nếu có gặp gia đình anh, nơi có người vợ trẻ yêu quý, thì xin đừng cho biết tin anh đang bị thương để gia đình khỏi lo lắng. Hình ảnh người chiến sĩ đổ máu trong cuộc chiến ác liệt, hy sinh cả tuổi thanh xuân của mình để cứu lấy cuộc sống của bao người đã làm Tôn Thất Lập xúc động, thầm nghĩ sẽ phải viết gì đây về những con người này. Về lại thành phố, anh sáng tác ca khúc Tình anh ghi lại cảm xúc, suy tư của mình nhân dịp đi thực tế ở chiến trường xa. Từ đoạn nhịp tự do (Ad libitum) chuyển sang đoạn vào nhịp (A tempo) và kết thúc ở đoạn cao trào thuộc giọng La trưởng, giai điệu trầm hùng sâu lắng thể hiện tình cảm yêu thương ngày càng dạt dào mãnh liệt đối với những con người từng hy sinh quên mình vì quê hương, đất nước, vì đồng chí, đồng bào:

Khi anh trở về em vẫn mong đợi
Tháng năm dài hơn một đời hoa
Em đã cho anh nhiều như thế
Chiến tranh dài như thế, nên có bao giờ anh nghĩ về anh
Dù có hy sinh cả tuổi thanh xuân ở chốn chiến trường xa…


Trong những bài tình ca của Tôn Thất Lập có bài Trò chơi vừa vui vừa dí dỏm khá thích hợp với tuổi trẻ tinh nghịch. Chẳng ai biết đích xác trò chơi con trẻ “oẳn tù tì” (one two three) từ nước ngoài du nhập vào nước ta vào thời điểm nào, chỉ biết từ lâu đã trở thành quá quen thuộc đối với các em nhỏ. Cảm hứng từ trò chơi này, Tôn Thất Lập đã viết nên một ca khúc sinh hoạt vui tươi, dí dỏm dành cho tuổi thanh niên. Âm hình giai điệu và âm hình tiết tấu của bài hát khá giản dị, dễ nhớ, dễ thuộc. Chỉ với sáu câu ngắn gọn của thể loại ca khúc một đoạn, anh thể hiện khá thành công một loại “bài hát - trò chơi” cho giới trẻ: “Em ra cái kéo… Anh ra phong thư… Em ra cái búa… Anh ra cây kim…”. Qua bài hát, nam nữ lại trao đổi tình cảm với nhau: Mái tóc em “trói đời anh luôn”, đôi tay anh ôm “quanh em mãi…”. Và không chỉ đơn thuần là trò chơi, Tôn Thất Lập còn muốn đi xa hơn một chút, gởi gắm một vài quan niệm sống của mình vào bài hát: Phải “đánh” tan những thói đời gian dối (cái búa), phải “cắt” đi những cuộc tình vu vơ (cái kéo), tình yêu đôi lứa là tự nguyện của hai người, đâu có thể để “trọng tài” ra tay quyết định.

Trước khi kết thúc bài viết này, chúng ta trở lại với một ca khúc khá nổi tiếng của Tôn Thất Lập ra đời sau 1975, đó là bài Trị An âm vang mùa xuân. Ngày 30/4/1984 nhạc sỹ Tôn Thất Lập cùng với các văn nghệ sỹ thành phố Hồ Chí Minh về Đồng Nai dự lễ khởi công xây dựng công trình thủy điện Trị An. Trong không khí sôi nổi, tưng bừng hôm ấy, anh tưởng tượng đến ngày dòng điện Trị An rực sáng đem đến niềm vui và hạnh phúc cho mọi người trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước. Chợt một nét nhạc vui tươi của một bài hát mới về Trị An vang lên trong anh. Thế là sau ít ngày trở về thành phố, anh sáng tác nên bài hát Trị An âm vang mùa xuân.

Bài hát nhanh chóng phổ biến trong quần chúng, nhất là giới trẻ. Chính cảm xúc và kỹ thuật sáng tác bài hát này là yếu tố quan trọng tạo nên giá trị của tác phẩm. Bài hát được cấu trúc theo thể hai đoạn AB. Trong đoạn A giai điệu thong thả, dàn trải nghe mênh mông như mặt hồ, nhiều “chùm ba” (triolet) được sử dụng khá hợp lý, xen lẫn các nốt có trường độ dài, tạo ra cảm giác khao khát thực hiện một ước vọng cao đẹp là tạo ra dòng điện cho Tổ quốc:

Một dòng nước trong hát câu chờ mong âm vang dòng sông
Một tình nước non thắp trong lòng anh sáng trong lòng người
Lặng nghe gió reo nhớ bao ngày qua ước mơ dạt dào
Lặng nghe nước reo thắp trong lòng ta giấc mơ rực sáng…


Sang đoạn B, giai điệu có nhiều “phách đảo” (syncope) đầu mỗi câu nhạc hoặc đầu mỗi phân câu (tiết nhạc) tạo nên không khí rộn ràng, sôi nổi, thể hiện niềm vui đón mừng ánh điện Trị An phát sáng:

Dòng điện âm vang từ triệu con tim
Dòng điện mênh mang từ ngàn khối óc
Dòng điện mê say gọi ngày tương lai
Dòng điện bao la gọi đời bay xa…


Có thể nói nhạc sĩ Tôn Thất Lập đã thành công trong việc kết hợp nhuần nhuyễn giữa tiết tấu thể loại pop-rock với âm hình giai điệu dân tộc để sáng tác nên ca khúc nổi tiếng Trị An âm vang mùa xuân.

T.Q.L
(SHSDB42/09-2021)




 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)

  • Nhạc và lời: NGUYỄN VĂN VŨ

  • TÔN THẤT BÌNH

    Nếu dân ca là suối nguồn cảm hứng của nhân dân lao động trong cuộc sống thì hò là phương thế thể hiện tâm tình tràn đầy xúc cảm một cách trung thực nhất.

  • VĂN CAO
           Hồi ký

    Sau triển lãm Duy nhất 1944 (Salon Unique), tôi về ở một căn gác hẹp đầu phố Nguyễn Thượng Hiền.

  • TÂM HẰNG NGUYỄN ĐẮC XUÂN  

    Tin từ Làng Mai Pháp quốc cho biết: Đêm giao thừa Thầy nói về Phạm Duy cho khoảng 70 cháu sinh viên Việt Nam về thăm Làng. Bài giảng này cũng là một loại hommage(1) cho Phạm Duy. Có thể nghe lại trên mạng chỗ Pháp Thoại online của Thầy vào ngày 30 Tết vừa rồi.

  • Trưa ngày 27/01/2013, cây đại thụ của làng nhạc - Nhạc sĩ Phạm Duy – đã qua đời, hưởng thọ 93 tuổi. Nhạc sĩ Phạm Duy có số lượng tác phẩm âm nhạc đồ sộ, trong đó có nhiều tác phẩm nổi tiếng. Khi còn sống, nhạc sĩ Phạm Duy cũng thường xuyên cộng tác với Tạp chí Sông Hương. Chúng tôi xin đăng lại bài viết cuối cùng của nhạc sĩ đã gởi cho tòa soạn trước khi mất và đã được đăng trên Sông Hương số Tết Quý Tỵ 2013, như một nén hương tưởng nhớ người nhạc sĩ tài hoa.

  • “Đời là những cơn mưa vô thường/ Trói chân em bên đường/ Nước dâng cao chân tường/ Đường xa chân ướt phơi nắng dầm sương”...

  • NGUYỄN TẤN TÔN NỮ Ý NHI

    Trong ý niệm của nhiều người từ hạng trí thức cao cho đến bình dân, ngoại trừ dân nghiên cứu dân tộc nhạc học, hát xẩm là một thể loại âm nhạc có xuất thân thấp kém, luôn gắn liền với hình ảnh của người khiếm thị và cây đàn nhị từ góc phố, sân đình hay bãi chợ. Nhắc đến hát xẩm, đa phần người ta liên tưởng ngay đến những ca từ mộc mạc, dung dị và lắm khi dung tục.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂN 

    Đêm giới thiệu Trường ca Hàn Mặc Tử, tại Học viện Âm nhạc Huế thầy Trần Văn Khê và nhạc sĩ Phạm Duy đã đưa chúng ta đi từ cõi thực mộng mơ trải qua những đau đớn, vật lộn với cơn đau đến ngất lịm và cuối cùng nương tựa vào niềm tin tâm linh để hiện hữu.

  • TRƯƠNG ĐÌNH NGỘ

    Thượng thanh khí tiết ra nguồn tinh khí
    Xa xôi đời trăng mọc nước Huyền Vi
    Đây Miên Trường, đây Vĩnh Cữu tề phi
    Cao cao vượt hai hàng bóng vía


  • (Bản dịch của Trương Đình Ngộ)

  • NGUYỄN THỤY KHA

    Có thể nhận ra sự giao hòa giữa nhiều chiều cảm xúc trong quá trình thai nghén bài hát "Thiên Thai". Song có lẽ cái lớn nhất, cái bao trùm, cái gốc để tỏa ra sự tràn trề giai điệu của bài hát này chính là sự phản ảnh có thực của một dòng sông nào đó.

  • ĐẶNG TIẾN “Bộ môn” Thơ đang lùi bước trong xã hội hiện đại. Đời sống đô thị nhanh bước theo nhịp tiến hóa của công nghiệp, đẩy lùi biên độ của thơ: kỹ thuật hiện đại cung cấp cho quần chúng - nhất là thanh niên - những phương tiện giải trí và truyền thông hấp dẫn và nhanh chóng hơn những bài bản vần vè trước đây - dù sao cũng gắn liền với nếp sống nông thôn.

  • NGUYỄN HOÀN Nhân kỷ niệm 10 năm ngày nhạc sĩ Trịnh Công Sơn về cõi thiên thu 1/4 (2001-2011), Nhà xuất bản Trẻ xuất bản cuốn sách “Thư tình gửi một người” tập hợp hơn 300 trang thư tình của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn gửi Ngô Vũ Dao Ánh, người tình có ảnh hưởng mạnh mẽ và lâu bền trong cảm hứng sáng tạo âm nhạc của nhạc sĩ.

  • DƯƠNG BÍCH HÀDân tộc Tà Ôi, cũng như các dân tộc cư trú dọc Trường Sơn, âm nhạc là một bộ phận thiết yếu trong đời sống văn hóa của họ, nó không chỉ mang chức năng giải trí đơn thuần mà gắn liền với tín ngưỡng, với đời sống tâm linh, là phương tiện để tiếp xúc với thần linh.

  • NGUYỄN THỊ HỒNG SANHNgười ta gọi Trịnh Công Sơn là “sứ giả tình yêu”, “người tình của mọi thế hệ”, nhưng có lẽ chức danh “con người thi ca” mà nhạc sĩ Văn Cao yêu mến dành tặng cho ông là phù hợp hơn cả.

  • TrẦn thỊ AnCho đến nay, ca trù vẫn là một thể loại văn chương âm nhạc rất xa lạ với đông đảo đại chúng. Trong ấn tượng chung, ca trù là một sinh hoạt âm nhạc trước hết gắn với lễ lạt của các ông hoang bà chúa hay các miếu đền, sau nữa là thú ăn chơi ở dinh quan, thậm chí trở nên sa đọa và trụy lạc nơi ca quán.

  • NGUYỄN THỤY KHATừ sau "Đề cương văn hóa" của Đảng ra đời năm 1943 sáu chữ "Dân tộc - khoa học - đại chúng" đã trở thành tâm niệm của những chiến sĩ cách mạng làm công tác văn hóa. Song ngay cả khi Cách mạng tháng Tám thành công, rồi cả dân tộc bước vào cuộc trường kỳ kháng chiến thì cho đến trước chiến dịch Điện Biên, chữ "Dân tộc' trong "Đề cương văn hóa" vẫn chỉ được các nghệ sĩ khai thác ở những vốn cổ của người Kinh, trong đó có nghệ thuật âm nhạc.

  • NGUYỄN THỤY KHATrong hai đêm 2 và 3.06.2004 tại Nhà Hát Lớn, Hà Nội đã diễn ra chương trình hoà nhạc của Dàn Nhạc Giao Hưởng Việt Nam dưới sự chỉ huy của Giáo sư - Nhạc trưởng người Anh Colin Metters - Cố vấn âm nhạc và nhạc trưởng hợp tác chính của Dàn Nhạc Giao Hưởng Việt Nam trong dự án 5 năm nhằm củng cố và phát triển dàn nhạc lên ngang tầm quốc tế.

  • VĂN THAO... Tôi tập tễnh bước một leo lên cầu thang ngôi nhà số 108 phố Yết Kiêu vào một ngày giáp tết năm 1976. Đã sang tiết xuân, trời nắng nhẹ mà vẫn lạnh. Tiếng đàn dương cầm vọng ra. Một điệu vans. Giai điệu của bản nhạc mượt mà, lấp lánh như những hạt nắng xao động trên vòm cây. Một giai điệu mà tôi chưa nghe bao giờ.

  • MẶC HY    Hồi kýThế là tôi và Lê Lự, mấy đêm nay, lại được nằm chỏng khoèo trên mấy tấm ván nóc chuồng trâu nhà mẹ An tại Khe Giữa để đón một cái Tết thứ hai ở chiến khu Ba Lòng.