Từ Sông Hương đến "Thiên Thai"

16:28 24/02/2012

NGUYỄN THỤY KHA

Có thể nhận ra sự giao hòa giữa nhiều chiều cảm xúc trong quá trình thai nghén bài hát "Thiên Thai". Song có lẽ cái lớn nhất, cái bao trùm, cái gốc để tỏa ra sự tràn trề giai điệu của bài hát này chính là sự phản ảnh có thực của một dòng sông nào đó.

Nhạc sĩ Văn Cao - Ảnh: internet

Một người bạn cả quyết với tôi: "Giai điệu đẹp mênh mang như thế chỉ có thể đi tả một dòng sông thơ mộng như sông Hương mà thôi ". Tôi hơi nghi ngờ vì bạn là người Huế. Nhưng trong trường hợp này, linh cảm của người bạn là chính xác. Chính sông Hương là nơi bắt nguồn cho bài hát "Thiên Thai" của Văn Cao.

Văn Cao đến sông Hương mùa đông 1940. Thời kỳ ấy, nỗi khắc khoải về cuộc sống, về tình yêu của lứa tuổi mình trong cái thời mà sự sống con người bị thảm họa phát xít, các thế lực thực dân đe dọa hết sức nặng nề. Giống như nhà văn cùng tuổi người Tiệp Khắc - Jan Ôt-Sênasêch đã viết về tình yêu của lứa tuổi này trong những năm tháng ấy qua truyện "Rômêô, Juyliet, và bóng tối" Văn Cao đi tìm lối giải thoát cho những khắc khoải ấy qua âm nhạc. Có lẽ thế cho nên sông Hương - nơi sinh ra nền âm nhạc cổ điển Huế giữa tiếng nước rơi bán âm những mái chèo khuya của những người tài nữ đã âm vọng trong người nhạc sĩ trẻ một nỗi xót xa và cùng dội lên niềm khao khát. Ngay trong những ngày đó, Văn Cao đã viết bài thơ "Một đêm đàn lạnh trên sông Huế" với một tâm trạng phiền muộn già dặn:

Giọng hát sầu chi phấn nữ ơi
Từng canh trời điểm một sao rơi
Tà tà trăng lặn hiu hiu gió
Ánh lửa chài xa thấp thoáng trôi

Em cạn lời thôi anh dứt nhạc
Biệt ly đôi phách ngó đàn tranh
Một đêm đàn lạnh trên sông Huế
Ôi nhớ nhung hoài vạt áo xanh

Rời sông Hương vào Sài Gòn, Văn Cao đã tiếp tục cảm hứng bằng bài hát "Trên sông Hương". Bài hát được viết ra vội và rơi nhanh vào quên lãng nhưng sông Hương lúc đó còn lại trong tâm hồn Văn Cao cô đọng một mô típ âm nhạc. Sau một năm trở lại cửa biển Hải Phòng, cùng bạn bè dong thuyền trên sông, nghe khúc Thiên Thai cổ và những đoạn thét nhạc của ca trù, nỗi xót xa và niềm khát khao đã nhận cảm mơ hồ ở sông Hương gặp dịp cất cánh. Bài hát "Thiên Thai" đã ra đời vào cuối năm 1941. Năm ấy, Văn Cao tròn 18 tuổi.

Mang chứa những khắc khoải về cuộc sống về tình yêu của tuổi trẻ trong một hình thức mở rộng của ca khúc, bài hát "Thiên Thai" xây dựng trên cơ sở của những điệu thức thứ, nguyên vẹn là một bài hát trữ tình, dạt dào truyền cảm. Sự biến chuyển tình tiết của huyền thoại cổ về hai chàng Lưu- Nguyễn được kể lể bằng những giai điệu đẹp, liên tục cuộn xiết như một dòng sông âm thanh. Ngay trong đoạn trình bày đầu tiên, Văn Cao đã viết:

Tiếng ai hát chiều nay vang lừng trên sóng
Nhớ Lưu Nguyễn ngày xưa lạc tới Đào Nguyên
Kìa đường lên tiên
Kìa nguồn hương duyên
Theo gió tiếng đàn xao xuyến...

Những hoài tưởng xen lẫn những cảm giác âm thanh gợi ra không khí huyền diệu, trầm lắng của Đường Thi. Nhiều khi trong sóng nhạc ta có cảm giác tác giả đưa đến một tinh cầu bí mật chan hòa ánh sáng, tràn ngập âm thanh:

Thiên Thai chốn đây hoa xuân chưa gặp bướm trần gian
Có một mùa đào dòng ngày tháng chưa tàn qua một lần...

Ở đây, ở chốn tận cùng của niềm khao khát, con người gặp được tình yêu mê đắm của mình. Trong đoạn nhạc phát triển này, người ta nhận ra âm hưởng thét nhạc của ca trù nhằm diễn tả tới mức cao nhất mà lại tế nhị nhất của sự rung động tình yêu rất đạo và rất đời.

Này khúc Bồng Lai
Là cả một thiên thu trong tiếng đàn chơi vơi…

Có một số quan niệm cho rằng qua "Thiên Thai", Văn Cao muốn thoát ly cuộc sống đau khổ thực tại. Thái độ đó là thái độ của những kẻ quay lưng với cuộc sống, từ chối cuộc sống thực để vươn tới không tưởng? Nhưng đâu phải "Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ", cái sức sống tự nhiên tỏa ra từ bài hát đã vô thức chỉ ra ước mơ trong sáng của người nhạc sĩ trẻ. Văn Cao ước mơ những khao khát ấy, những tình cảm đẹp ấy phải được thực hiện ngay trên mặt đất này. Đó chính là một phía của hiện thực:

Thiên Thai ánh trăng xanh mơ tan thành suối trần gian

Điều này thật đúng với tiêu chí phấn đấu của loài người hiện nay: "Chủ nghĩa cộng sản là thiên đường của loài người": Hãy tạo ra thiên đường ngay trên hành tinh chúng ta, ngay trong cuộc sống chúng ta. Rõ ràng là 20 năm sau khi bài "Thiên Thai" ra đời, mùa xuân năm 1961, trong cảnh sống thanh bình của miền Bắc xã hội chủ nghĩa, nhà thơ Tố Hữu đã viết:

Có gì đẹp trên đời hơn thế
Người với người sống để yêu nhau

Miền Bắc thiên đường của các con tôi.

Như vậy, ước mơ trong "Thiên Thai" có cơ sở biện chứng của nó. Khúc cuối cùng của bài hát mang tính chất Rông-đô và được chuyển sang giọng trưởng đối nghịch cũng là nhằm nói rõ, nhấn mạnh niềm khao khát thường nhật này:

Giọng hát trầm tiếng ca
Tiếng phách dồn lắng xa
Nhắc chi ngày xưa đó
Đến se buồn lòng ta…

Ca khúc vốn là sản phẩm văn hóa của đô thị. Vì thế, chức năng nổi bật của nó là giải trí. Khi ca khúc phương Tây nhập vào Việt Nam những ngày đầu thế kỷ XX, có nhiều phái, nhóm viết ca khúc ở Việt Nam nghiêng về chức năng trên. Nhưng ở Văn Cao mà cụ thể là ở bài hát "Thiên Thai" chức năng giáo dục thẩm mỹ khá rõ rệt. Học Lê Thương ở sự trữ tình mơ mộng, hoặc Hoàng Quý ở sự vui tươi, sống động, tiếp thu tinh hoa của thể loại này, Văn Cao mau chóng phát ngôn nó theo cách của Việt Nam, nồng ấm tinh thần Việt Nam. "Thiên Thai" có thể trùng hợp với tác phẩm của Đờ-buýt-xuy trong mô tả tình yêu, nhưng đó là sự mô tả bằng ngôn ngữ Việt Nam. Trước Văn Cao, những tác giả ca khúc Việt Nam chưa ai tổ chức ca khúc trên một hình thức mở rộng như thế và mang chứa một nội dung như thế. Hình thức đó giúp Văn Cao đủ tự sự tâm trạng mình đến mức cá tính hóa rất cao. Vì thế, nó lại tạo được độ khái quát lớn. Soi vào cá tính ấy, ai cũng gặp vẻ mặt mình trong đó. Đó cũng chính là lý giải vì sao bài hát này được nhiều người mến mộ. Cấu trúc của "Thiên Thai" báo hiệu những phát triển rực rỡ trong sáng tác của Văn Cao như "Trương Chi", và sau này đỉnh cao là "Trường ca Sông Lô". Ở "Thiên Thai", ngoài việc truyền hơi thở dân tộc, các điệu hát của dân tộc trong tiến hành giai điệu, ta có thể thấy tỉ mỉ hơn trong tiết tấu bóng dáng của rất nhiều tiết tấu phương Tây. Nhưng thật lạ lùng, khi nhập vào thế giới âm thanh của "Thiên Thai", các tiết tấu đó đều được thuần hóa từ trong bản chất để trở thành những bộ phận nhỏ, chuyển hóa nối tiếp nhau sinh động trong tiết tấu nội tâm riêng biệt của Văn Cao, và đặc biệt những giai điệu ấy, những tiết tấu ấy lại được dùng để truyền tải những ca từ thấm đẫm chất thơ. Chúng quyện vào nhau như một làn hương trong vườn nhiều hoa không thể tách được ra và cùng mang đến niềm hưng phấn thực sự trong thưởng thức. "Thiên Thai" đã tạo được tác động kỳ diệu của nghệ thuật, đúng với tinh thần chuộng đẹp của người Việt Nam. Nó ẩn chứa một từ trường bí mật để mọi người luôn luôn phải ngỡ ngàng. Vì thế, nó là một tác phẩm luôn luôn mới.

"Thiên Thai" ra đời và đạt được ngay vị trí vàng son của một ca khúc trữ tình. Lần đầu tiên, "Thiên Thai" được tốp nữ của trường Đồng Khánh Hà Nội (sau đổi là Trưng Vương) biểu diễn ở Nhà Hát Lớn có thêm phần múa phụ họa do nhạc sĩ Văn Chung biên đạo và dàn dựng. Khác với số phận bài "Trên Sông Hương" khi trước, "Thiên Thai" mau chóng lan truyền trong nhân dân cả nước và nhờ bản dịch tiếng Anh của Xuân Oanh, bài hát lan truyền tới nhiều nơi trên hành tinh. Những ngày đầu cách mạng tháng Tám, song song cùng với những hành khúc sôi nổi hào hùng như "Đống Đa", "Thăng Long hành khúc", "Tiến quân ca" v.v... các ca khúc trữ tình như "Suối mơ", "Thiên Thai", "Trương Chi" v.v... đã từ hai phía mà nói lên thành công lớn lao của nhạc sĩ trẻ Văn Cao. Trẻ già trai gái đâu đâu cũng hát tác phẩm của anh. Người ta hát tác phẩm của anh trên đài, ở ngoài đường, ở trong nhà, trong những đám cưới vui vẻ.

Người hát "Thiên Thai" hay nhất là ca sĩ có giọng hát vàng - anh Kim Tiêu. Yêu những tác phẩm của Văn Cao, Kim Tiêu đã tìm cách thể hiện rất đa dạng nhằm chuyển hóa được những cung bậc tự sự trong toàn bộ tác phẩm đến với người nghe. Trong kháng chiến 9 năm. Kim Tiêu đã bị bắt vì hát bài hát cách mạng. Vào tù, anh vẫn hát những bài hát cách mạng. Chính anh đã để lại cho Văn Cao nhiều xúc động và góp phần tạo nên cảm hứng trong bước đường sáng tác âm nhạc của Văn Cao.

Cũng đáng tiếc là do một số ca sĩ thời đó chưa thấu hiểu sâu sắc tác phẩm cũng như tác giả, họ đã "sướt mướt hóa" bài hát trữ tình này theo một "tình cảm ủy mị rẻ tiền" khiến cho bài hát bị nhìn oan như một "tác phẩm vàng vọt" trong khá nhiều năm.

Trong khung cảnh hiện tại, trong sự phát triển mạnh mẽ về văn hóa của đất nước, "Thiên Thai" đã được trả lại vị trí của những bài hát trữ tình mở đầu cho sự phát triển thể loại ca khúc ở Việt Nam trong thế kỷ này. Tháng 10-1983, trong buổi kỷ niệm 60 năm ngày sinh của nhạc sĩ Văn Cao, tại hội trường của Hội nhạc sĩ Việt Nam, bài hát "Thiên Thai" đã được vang lên qua giọng hát của chị Kim Ngọc - và phần đệm piano của ông Đặng Hữu Phúc. Dường như lúc ấy trong hội trường, "không khí được cũ đi một cách dễ chịu". Mọi người đã im lặng thưởng thức lại giai điệu của "Thiên Thai" như gặp lại những niềm khát khao trong sáng của tuổi trẻ.

16-5-1986
N.T.K
(SH20/8-86)






 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • VĂN CAO

    Sau triển lãm Duy nhất 1944 (Salon Unique), tôi về một căn gác hẹp đầu phố  Nguyễn Thượng Hiền.

  • TRƯƠNG QUANG LỤC  

    Lần đầu tiên tôi quen biết nhạc sĩ Tôn Thất Lập là tại thành phố Hồ Chí Minh sau ngày thống nhất đất nước. 

  • DƯƠNG BÍCH HÀ

    Miền núi phía Tây Bắc huyện Minh Hóa ở Quảng Bình có nhiều nhóm tộc người cùng sinh sống như nhóm người Mày, Rục, Sách, Mã Liềng, A Rem (gọi chung là tộc người Chứt), và tộc người Nguồn (trước kia gọi là người bản địa Kẻ Sạt, Kẻ Xét, Kẻ Trem, Kẻ Pôộc bộ Việt Thường, nước Văn Lang).

  • TRÀ AN    

    Người ta gọi Trịnh Công Sơn là Sứ giả tình yêu, Kẻ du ca về phận người, hay Người tình mọi thế hệ… nhưng có lẽ với tên gọi mà nhạc sĩ Văn Cao đặc biệt yêu mến dành tặng ông: “Con người thi ca” thì chức danh ấy phù hợp hơn cả.

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG  

    I. Vài nét về dân ca Tà Ôi
    Trong hệ thống phân loại, dân ca Tà Ôi có đến 9 làn điệu gồm: Cà lơi, Ba bói, Cha chấp, Xiềng, Ân tói, Babởq, Ra rọi, Roin, Ru akay. Mỗi làn điệu đều có những quy định, cách thức thể hiện khác nhau.

  • Hoàng Nguyễn hiện là giảng viên thanh nhạc Trường Cao đẳng Nghệ thuật Huế. Anh bước vào nghề hát từ năm 1968. Từ 1973 đến 1978 học thanh nhạc Nhạc Viện Hà Nội, sau đó chuyển về giảng dạy ở trường âm nhạc Huế. Năm 1981 đến 1985 học thanh nhạc tại Bungari. Với kỹ thuật thanh nhạc điêu luyện, Hoàng Nguyễn đã góp phần quan trọng vào thành công buổi trình diễn thanh nhạc Thính phòng đầu tiên tại Hội văn nghệ Thừa Thiên - Huế.

  • NGUYÊN CÔNG HẢO  

    Sau Đại hội tháng 01 năm 2013, vừa ổn định xong công việc tôi được nhạc sĩ Nguyễn Trung, Chi hội trưởng Chi hội Âm nhạc của tỉnh Bắc Ninh mời đi dự chương trình Liên hoan âm nhạc các tỉnh, thành phố kết nghĩa tại thành phố Huế vào tháng 4 năm 2013.

  • NGUYỄN XUÂN HOA

    Tại Diễn đàn Nghệ thuật Châu Á - Thái Bình Dương (Forum of Asian and Pacific Performing Art) năm 1996 ở Hyogo, Nhật Bản, những nhạc công Nhã nhạc Huế đã có các buổi giao lưu, cùng biểu diễn với Nhã nhạc Nhật Bản; đồng thời một số nhà nghiên cứu Nhã nhạc của hai nước cũng đã có dịp trao đổi về mối quan hệ giữa Nhã nhạc Á Đông (Gagakư Nhật Bản, Ahak Hàn Quốc, Yayue Trung Hoa và Nhã nhạc Việt Nam).

  • Thất lạc suốt 150 năm - và bị hiểu lầm là tác phẩm của em trai bà – một bản nhạc táo bạo và phức tạp của Fanny Mendelssohn mới đây đã nhận được sự chú ý xứng đáng dù muộn màng. Hậu duệ cách bà sáu thế hệ kể lại câu chuyện.

  • Theo thông tin mới nhận được từ phía Cục NTBD, ca khúc “Nối vòng tay lớn” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã chính thức được cấp phép lưu hành và phổ biến rộng rãi trên toàn quốc.

  • Gần 1 tháng, sau khi Cục Nghệ thuật biểu diễn (NTBD) có công văn yêu cầu tạm dừng lưu hành 5 ca khúc sáng tác trước năm 1975, công chúng yêu nhạc vẫn chưa hết băn khoăn. Mới đây, việc tìm thấy bản gốc ca khúc “Con đường xưa em đi” lại càng khiến dư luận băn khoăn hơn: Mất bao lâu để nhà quản lý hoàn tất việc đối chiếu giữa bản gốc và dị bản của ca khúc? Sau sự việc này, việc xác minh dị bản ca khúc nói chung sẽ được thực hiện ra sao?

  • Bà Kha Thị Đàng - vợ cố nhạc sỹ Châu Kỳ đã bật mí về con đường mòn xuyên qua một cánh đồng lúa mà bà cho rằng chính con đường này đã tạo cảm hứng cho chồng bà và nhà thơ Hồ Đình Phương viết lên ca khúc “Con đường xưa em đi”.

  • Nói đến văn hóa Quảng Bình, không thể không nhắc đến hò khoan Lệ Thủy. Với lối hát dung dị, mộc mạc và gần gũi, làn điệu dân ca này là món ăn tinh thần bao đời nay của người dân nơi đây. Những ngày qua, hò khoan Lệ Thủy đã vang lên giữa Thủ đô, tạo điểm nhấn trong chương trình “Quảng Bình trong lòng Hà Nội”.

  • Vừa qua UNESCO đã chính thức ghi danh công nhận di sản “Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt” là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.

  • Từng đứng trước nguy cơ mai một, nhưng giờ đây, những làn điệu Then không chỉ đã dần tìm lại được chỗ đứng của mình mà còn đang trên hành trình trở thành di sản văn hóa của nhân loại. Đó chính là kết quả của sự nỗ lực không ngừng của các cấp, chính quyền và các nghệ nhân, những người tâm huyết với Then.

     

  • Erik Satie (1866-1925) được các nhà nghiên cứu lịch sử âm nhạc ngợi ca vì đã có công mở đường tới chủ nghĩa tối giản trong âm nhạc cổ điển từ trước Chiến tranh thế giới lần thứ nhất.

  • Cục trưởng Cục Nghệ thuật biểu diễn giải thích việc gửi văn bản gửi Sở VH-TT TP HCM yêu cầu tạm dừng lưu hành 5 bài hát đã cấp phép phổ biến để hướng dẫn các tổ chức, cá nhân thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật về quyền tác giả và quyền liên quan.