Mừng nhà văn Ba Kim đại thọ 100 tuổi

16:44 04/02/2009
HỒ SĨ HIỆPBa Kim, tên thật là Lý Nghiêu Đường, tự Thị Cam, sinh năm 1904, người Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên. Ông viết văn rất sớm, nổi tiếng trên văn đàn từ thời "ngũ tứ vận động" (1919) và hoạt động văn học sôi nổi từ những năm 30, 40 của thế kỷ trước, tên tuổi ngang hàng với các nhà văn Mao Thuẫn, Tào Ngu và Lão Xá.

Nhà văn Ba Kim (nguồn: www.tuoitre.com.vn)

Năm 1928, ông cho ra đời tác phẩm truyện dài đầu tiên là "Diệt vong". Năm 1934, sau khi đọc vở kịch "Lôi vũ", ông rất khâm phục tài năng sáng tác của Tào Ngu và hai người quan hệ mật thiết từ đó. Ông cũng quen thân với những nhà văn nổi tiếng Băng Tâm và Tiêu Càn.
Sau khi nước Trung Hoa mới ra đời (1949), Ba Kim hăng hái đi vào cuộc sống để sáng tác. Ông đến hầm mỏ, công trường, nhà máy tìm hiểu đời sống của công nhân và phản ánh tâm tư, nguyện vọng của họ trong tác phẩm. Đầu những năm 50, ông hai lần đến Triều Tiên và nhiều lần ra nước ngoài giao lưu văn hóa. Mười bảy năm trước khi xảy ra "Cách mạng văn hóa" (1949 - 1966) là thời gian sáng tác sung sức nhất của Ba Kim. Thể loại chủ yếu của ông là tản văn phản ánh sinh động công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa trên đất nước Trung Hoa mới. Đó là tác phẩm "Ngày Tết của Hoa Sa", "Cuộc sống giữa những người anh hùng", “Mọi người bảo vệ tổ quốc”, “Những ngày đầy vui vẻ”, “Tân thanh tập”, "Hữu nghị tập", "Tản ca tập", "Tình cảm thổ lộ không hết", "Bên bờ cầu Hiền Lương", "Bắc tái hành". Trong số này, "Bên bờ cầu Hiền Lương" là một tập tản văn Ba Kim viết sau chuyến đi thăm Việt . Lời văn trong tác phẩm tràn đầy cảm xúc, nói lên cảm tình đặc biệt của nhân dân Trung Quốc với cuộc đấu tranh thống nhất đất nước và xây dựng CNXH của nhân dân ta. Trong "Cách mạng văn hóa" (1966 - 1976) cũng như nhiều nhà văn chân chính khác, ông bị đả kích, bức hại và việc sáng tác văn học bị gián đoạn. Sau khi đập tan tập đoàn phản động "Bè lũ bốn tên", ông lại hăng hái trở lại sáng tác với niềm lạc quan và phấn khởi chưa từng có. Từ năm 1978 trở đi, Ba Kim bước vào giai đoạn sáng tác mới. Năm 1979 ông sang Pháp và có sự nhận thức về vị trí của văn học đương đại Trung Quốc đối với thế giới. Về nước, ông tích cực đề nghị nhà nước xây thư viện bảo quản những tác phẩm văn học hiện đại Trung Quốc.

Ba Kim là nhà văn đa tài, sáng tác nhiều thể loại (tản văn, tiểu thuyết và dịch thuật) nhưng thành công nổi bật của ông là tản văn. Tản văn của ông đề tài rộng lớn, nội dung phong phú. Tản văn 17 năm sau khi dựng nước của Ba Kim có thể chia làm mấy loại sau đây:
Loại thứ nhất là phản ảnh cuộc sống chiến đấu của chí nguyện quân Trung Quốc trong cuộc chiến tranh "Kháng Mỹ viện Triều", ngợi ca những nhân vật anh hùng, như các tác phẩm: "Chúng tôi đã gặp tư lệnh Bành Đức Hoài", "Cuộc sống giữa những người anh hùng", "Bình Nhưỡng, thành phố anh hùng". Loại thứ hai là Hoài niệm, tiếc thương danh nhân, bạn bè, như: các tác phẩm "Nhớ Lỗ Tấn tiên sinh", "Đêm thu" và "Một buổi sớm mùa thu". Loại thứ ba là miêu tả cảm xúc trước cuộc sống mới, như các tác phẩm: "Thượng Hải, mảnh đất xinh đẹp, chúng ta", "Những ngày tràn đầy vui vẻ". Loại thứ tư là miêu tả tình cảm, những điều mắt thấy tai nghe ở nước ngoài và ca ngợi tình hữu nghị với bạn bè bốn phương, như các tác phẩm: "Ngày Tết của Hoa Sa", "Núi Phú Sĩ và hoa anh đào ..." và "Bên bờ cầu Hiền Lương".

Bước vào thời kỳ mới (từ năm 1978 trở đi), tản văn của Ba Kim có nhiều thay đổi về nội dung và nghệ thuật. Về nội dung, theo như ông nói là "nói những lời chân thực". Ông nhấn mạnh "con người chỉ có nói lời chân thực mới có thể sống một cách chân thực" (Chân thực tập). Năm tập trong "Tùy tưởng lục" có thể coi là "những lời nói thực" xuất phát từ nhận thực và đáy lòng của tác giả. "Hoài niệm Tiêu San" cũng là tác phẩm "nói những lời chân thật". Tiêu San là vợ của Ba Kim. Bà là một phụ nữ xinh đẹp, lương thiện nhưng trong "Cách mạng văn hóa" bị Đức hại chết. Trước khi chết bà vẫn bình tĩnh, hai mắt mở to. Ba Kim cảm thấy "hai mắt ấy nhìn rất to, rất đẹp, rất sáng, tôi nhìn, nhìn mãi, giống như nhìn nhanh một ngọn lửa cháy sắp tắt". Tình cảm đối với Tiêu San rất sâu sắc và sự tôn kính của ông rất cao độ. Ba Kim muốn viết một bài văn để kỷ niệm ngày vợ qua đời nhưng ông "trái lại viết không được một câu nào". Sáu năm sau, khi "bè lũ bốn tên" bị đập tan, ông mới đặt bút viết "Hoài niệm Tiêu San".
Tháng 4 - 1979, Ba Kim lại đến thăm Paris . Thủ đô của nước Pháp. Ông ở một khách sạn gần Khải Hoàn Môn. Mỗi khi đi qua một phố nhỏ yên tĩnh, nhìn thấy cửa sổ có treo tấm lụa trắng, ông lại liên tưởng đến đại lộ Trường An ở Bắc Kinh, đường Hoài Hải ở Thượng Hải, Tây Hồ ở Hàng Châu và thôn làng ở Quảng Đông. Mặc dù đang ở Paris nhưng tâm hồn, tình cảm của ông luôn luôn hướng về quê hương và Tổ quốc.

Sự nghiệp sáng tác văn học của Ba Kim rất phong phú. Trong văn học hiện đại (1919 - 1949) và văn học đương đại (từ 1949 trở đi) ở Trung Quốc, tên tuổi của Ba Kim ngang hàng với các nhà văn lớn khác. Tác phẩm chủ yếu của Ba Kim gồm có truyện dài "Ái tình Tam bộ khúc" (gồm Vụ, Vũ và Điện), "Kích lưu Tam bộ khúc" (gồm Gia, Xuân, Thu) và "Kháng chiến Tam bộ khúc" (lửa 1, lửa 2 và lửa 3). Truyện vừa gồm có "Ngày thu trong mùa xuân", "Khệ Viên" và "Đêm lạnh". Tản văn có "Tùy tưởng lục" (gồm 5 tập) là "Chân thoại tập", "Bệnh trung tập", "Vô đề tập", "Tìm tòi tập" và "Tùy tưởng lục". Tác phẩm dịch có "Cha và con" của nhà văn Nga Tuốcghênhép. Tác phẩm tiêu biểu của Ba Kim có anh hưởng trong và ngoài nước nhất là "Gia" (Nhà), "Xuân" (Mùa xuân), "Thu" (Mùa thu). Ba tác phẩm này "có ý nghĩa của như khúc quân hành của thời đại, nó có tác dụng như một bài học vỡ lòng đối với lớp thanh niên chống phong kiến" (văn học Trung Quốc). Thông qua sự sa sút, phân hóa cao độ của một đại gia đình và cách nhìn hiện thực khách quan của tác giả bộ ba tác phẩm đã miêu tả cảnh sụp đổ không gì cứu vãn nỗi của chế độ phong kiến Trung Quốc đương thời. Trong ba tác phẩm Ba Kim đã tìm thấy sức mạnh vĩ đại của trào lưu cách mạng dâng lên làn sóng mạnh mẽ có khả năng làm thay đổi cuộc sống cũ trong tầng lớp thanh niên. Với tình cảm sục sôi, kiên quyết, tác giả lên án và đã kích mạnh mẽ thế lực phong kiến và nhiệt thành gợi ca sự giác ngộ, tự nguyện đứng dậy, vươn lên và tiến tới của một bộ phận tầng lớp thanh niên trí thức Trung Quốc.

Hơn hai trăm năm trước, Tào Tuyết Cần cho ra đời tác phẩm nổi tiếng "Hồng lâu mộng". Kế tục truyền thống vạch trần và lên án của "Hồng lâu mộng", bộ ba tác phẩm "Gia", "Xuân" và "Thu" của Ba Kim miêu tả sự suy vong tất yếu của gia đình phong kiến Trung Quốc. Cuộc đời và số phận của những nhân vật như Như Mai, Thụy Ngọc, Minh Phương, Uyển Nhi và Giác Huệ trong tác phẩm của Ba Kim như sống dậy trước mắt độc giả con người thật, sự việc thật của giai cấp phong kiến Trung Quốc trước thời "Ngũ tứ vận động". Mấy mươi năm trước "Gia" (Nhà) của Ba Kim được dịch ra tiếng Việt và rất được độc giả Việt hoan nghênh. Những năm gần đây, tác phẩm "Tùy tưởng lục" của ông cũng ra mắt ở Việt , đem đến cho độc giả một cảm nhận mới về phong cách nghệ thuật của Ba Kim. Dù thể loại nào, tác phẩm của Ba Kim cũng để lại cho người đọc những ấn tượng tốt đẹp. Hình tượng nhân vật trong tác phẩm của ông sống động như có máu, có thịt. Tác phẩm của ông không dựa vào miêu tả khách quan mà nhờ vào tình cảm sục sôi của người viết. Tiểu thuyết của ông tuy nhiều nhân vật, nhiều mối đan xen, chồng chéo nhưng được miêu tả có tình tự, thứ lớp rõ ràng. Tác phẩm "Tùy tưởng lục" sáng tác trong thời cuối đời thể hiện một cách sống động của một trái tim chân thành, thẳng thắn và tâm hồn trong sáng của ông.

Ba Kim là nhà văn coi trọng sự chân thực hơn là kỹ xảo văn học. Các nhà văn Trung Quốc luôn luôn nhớ đến câu nói nổi tiếng trở thành danh ngôn của ông là "Cảnh giới cao nhất của nghệ thuật là không có kỹ xảo" và "Tôi không theo đuổi kỹ xảo".
Trong thời gian tham dự "Hội thảo giảng dạy Hán ngữ quốc tế lần thứ 7" tổ chức tại Thượng Hải, chúng tôi tranh thủ thời gian đến bệnh viện Hoa Đông thăm Ba Kim, một nhà văn Trung Quốc lớn rất quen thuộc với nhân dân ta.
Từ khách sạn Thiên Hạc ở số 650 đường Nghi Sơn, qua mấy tuyến xe buýt vừa đi vừa hỏi đường, chúng tôi tìm đến được đường Hoa Sơn, Ô Lỗ Mộc Tề, từ đó tìm đến đường Diên An để lần tìm ra bệnh viện Hoa Đông, nơi Ba Kim đang nằm điều trị dài hạn tại đây.

Bệnh viện Hoa Đông gần bệnh viện Hoa Sơn. Hai bệnh viện này đều nằm ở mặt tiền đường, nhà cửa cao to, thoáng mát và sạch sẽ. Bệnh viện Hoa Đông ở số nhà 221 đường Diên An. Đường Diên An rộng dài, có cầu vượt chạy qua. Bệnh viện Hoa Đông gồm hai khu vực: Khu bệnh nhân thường và khu bệnh nhân chăm sóc đặc biệt. Chúng tôi đến bệnh viện vào ngày chủ nhật, không khí của bệnh viện rất vắng vẻ, yên tĩnh, chỉ có đội bảo vệ và nhân viên làm việc bên ngoài. Chúng tôi đến phòng thường trực, xuất trình giấy tờ và nói là người Việt Nam đến dự Hội thảo tại Thượng Hải và nhân đó đến thăm nhà văn Ba Kim đang nằm điều trị tại đây. Từng bước bước lên cầu thang, nhìn thấy phòng điều trị của Ba Kim, chúng tôi rất phấn khởi. Tuy không nhìn thấy Ba Kim, không được hỏi thăm sức khỏe của ông nhưng chúng tôi vô cùng mãn nguyện và tự hào là vượt qua hơn 4 ngàn cây số để được thăm một trong những nhà văn lớn nhất của Trung Quốc và thế giới trong thế kỷ 20. Còn Ba Kim ông cũng không biết ở bên ngoài cánh cửa phòng có một độc giả người Việt yêu mến ông mà tìm đến bệnh viện để được biết tình hình sức khỏe và được ngắm nhìn ông những giờ phút cuối đời...

Mỗi nhà văn đều có một quê hương để mình gắn bó. Đến Bắc Kinh, chúng tôi nhớ đến Lão Xá. Đến Thượng Hải, chúng tôi không sao quên được Mao Thuẫn và Ba Kim. Một người văn chương tài giỏi như Ba Kim mà suốt đời gian nan, lận đận. "Cách mạng văn hóa" ông bị hành hạ. Bước vào thời kỳ mới, tuy tuổi già, sức yếu nhưng trái tim ông vẫn luôn hướng về đất nước và văn học. Đến thăm Bắc Kinh, chúng tôi có dịp lại đến thăm "Thư Viện Văn học hiện đại Trung Quốc" do ông đề xướng đã được xây dựng. Mặc dù ở Việt nhưng chúng tôi vẫn luôn theo dõi về tình hình sức khỏe của Ba Kim - nhà văn những năm đầu thế kỷ 20 cuối cùng vẫn còn trường thọ ở tuổi 100 (năm 2004).       
H.S.H

(nguồn: TCSH số 191 - 01 - 2005)

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TÔ HOÀNGBạn chắc không thể không biết đến đến hai tên tuổi này: Brigitte Bardot và Francoise Sagan. Vẫn mãi còn đó những hình tượng khó quên mà Brigitte Bardot dành cho màn ảnh, những trang sách khó quên mà Francoise Sagan dành cho văn học. Hai người sinh ra cùng thời, nhưng với tháng Chín năm 2004 này nếu chúng ta chúc mừng Brigitte tròn 70 tuổi, thì lại đau đớn, nuối tiếc vĩnh biệt Francoise Sagan ra đi ở tuổi 69...

  • Cuộc đời và sự nghiệp của Văn Cao luôn là những bí ẩn đối với hậu thế. Ai sẽ là người dựng lên được một Văn Cao - một trong những tượng đài của dân tộc Việt Nam thế kỷ 20, nhưng cũng là một con người của cuộc đời thực với những vui buồn, đớn đau, hạnh phúc...?

  • NGUYỄN KHẮC PHÊLần này, tác giả bộ trường thiên tiểu thuyết viết về thời Tây Sơn - Nguyễn Huệ "Sông Côn mùa lũ" (SCML) trở lại thăm nơi vua Quang Trung lên ngôi khi Huế vừa sang thu. Nước sông Hương do những trận mưa đầu mùa trên đại ngàn cuốn đất bùn con đường lớn Trường Sơn vừa xẻ rộng tràn về, không còn trong xanh như dịp ông về thăm Huế mùa hè hai năm trước, nhưng Cố đô qua hai kỳ Festival, nhiều khu phố được tôn tạo, khang trang hơn nhiều. (*)

  • VĂN THAOTháng 10-1944, nhạc sĩ Văn Cao đã sáng tác bài hát Tiến quân ca trên một căn gác nhỏ tại số nhà 45 phố Nguyễn Thượng Hiền. Căn gác này cũng là nơi Văn Cao đã sống và hoạt động cách mạng từ năm 1944 đến ngày toàn quốc kháng chiến 22-12-1946. Đội danh dự Việt Minh do Văn Cao phụ trách cũng từ đây toả đi làm nhiệm vụ. Nhiều cán bộ cao cấp của Đảng như các đồng chí Vũ Quý, Lê Quang Đạo, Lê Trọng Nghĩa, Nguyễn Thành Lê... cũng đã thường xuyên dùng địa điểm này để hoạt động trong những năm đầu cách mạng. Nhiều tác phẩm nổi tiếng của Văn Cao như: Bài thơ Chiếc xe gác qua phường Dạ Lạc; các ca khúc Chiến sĩ Việt Nam, Công nhân Việt Nam, Không quân Việt Nam, Hải quân Việt Nam đã ra đời tại đây.

  • VĨNH NGUYÊNHội VHNT Thừa Thiên Huế chủ trương đưa văn nghệ sĩ về bám sát thực tế địa phương, vùng sâu vùng xa, nên những năm gần đây đã liên tục mở trại sáng tác ở các huyện trong tỉnh. Các năm trước là Quảng Điền, Phú Vang, Hương Thuỷ và năm 2004 này là Phú Lộc.

  • PHAN THÀNH TRUNGMột ngày đẹp trời. Lễ mừng thọ cụ Nguyễn Hữu Đang 80 tuổi được tổ chức vui vẻ, trân trọng tại Chòi ngắm sóng Hồ Tây, đúng vào ngày kỷ niệm Nhà giáo Việt Nam 20 tháng 11 năm 1992. Với danh nghĩa là em kết nghĩa của cụ Đang, Phùng Cung và Phùng Quán đã đứng ra tổ chức lễ thọ này. Hai nhà thơ vốn quen tính vui đùa dí dỏm đã gọi hóm là “Mừng sống dai”...

  • “Cụ Hồ Chí Minh được nhân dân rất quý mến. Tên cụ có nghĩa là “sáng suốt”. Cụ là một nhà chính trị xuất chúng, một nhà chiến lược Cách mạng, một người yêu nước nồng nàn. Cụ đã nêu gương chính nghĩa và đạo đức cho thế hệ thanh niên noi theo” (Nhà báo Mỹ - Starôbin)

  • NGUYỄN KHẮC PHÊNếu không có nghị lực hơn người, nhà giáo ưu tú - nhà nghiên cứu Văn Tâm đã bước sang thế giới khác từ 7- 8 năm trước rồi, sau cơn tai biến mạch máu não “thập tử nhất sinh”. Nhờ kiên trì tập luyện và đủ thứ thuốc men, từ bên “cửa tử”, dần dần anh đã “phục sinh” và với cây gậy ngắn để có thể tự đi lại trong nhà khi cần lục tìm tư liệu, cây bút nghiên cứu phê bình cẩn trọng mà không thiếu sự sắc sảo Văn Tâm đã cống hiến cho nền văn học chúng ta những tác phẩm dày dặn và thật sự có chất lượng: “Đoàn Phú Tứ - con người và tác phẩm” (1995, tái bản 2002), “Vườn khuya một mình” (2001), “Tản Đà khối mâu thuẫn lớn” (2003 - Tái bản, bổ sung). Một số bài nghiên cứu gần đây của anh về nhà văn Phùng Quán và nhà thơ Bằng Việt đăng trên “Sông Hương” cũng rất công phu, đồng thời vẫn thể hiện sự tinh tế trong cảm nhận vẻ đẹp của văn chương.

  •        (Trích) Lê Mỹ Ý: Thưa ông, đã từng là "Người đi tìm mặt " trong thơ, đến bây giờ ông đã tìm được khuôn mặt của mình chưa?Hoàng Hưng: Tôi thấy rằng cái mặt của tôi, bản thân cái mặt đó nó cũng không phải là một cái mặt và cũng không phải là bất biến qua thời gian, ngay cả trong từng lúc nó cũng không chỉ là một cái mặt mà nó có đến vài cái mặt. Qua thời gian lại càng có sự diễn biến. Việc đi tìm cái mặt của bản thân thực ra có những người không bao giờ thấy cả, tức là không biết mình như thế nào.

  • Tháng 4 năm 1988, khi đang chữa bệnh ở chùa Pháp Hoa (Đồng Nai), trong một bức thư gửi bạn, nhà văn Nguyễn Minh Châu tâm sự rằng ông vẫn thèm viết tiếp một bài về vấn đề “Nhà văn và sự nghiệp dân chủ hóa đất nước” Nhưng rồi bệnh ngày càng nặng khiến ông cho đến khi qua đời đã không thực hiện xong dự định. Tuy vậy đồng nghiệp và bạn đọc vẫn may mắn được biết ý kiến căn bản của ông về vấn đề này.

  • VÕ THỊ QUỲNHĐến Hội Văn nghệ một chiều xuân Giáp Thân, tết còn đỏ hạt dưa, còn thắm mai vàng, còn hồng hoa đào và còn lủng lẳng tròn trịa những quả quất trĩu cành - chúng tôi tưởng nhớ anh - nhà thơ luôn dịu dàng, luôn hiền hoà: XUÂN HOÀNG. Bao kỷ niệm một thời nhà thơ sống gắn bó sáng tạo với Bình Trị Thiên, với Huế lại ùa về trong lòng những người đến thắp hương kính viếng hương hồn anh - chiều nay...

  • VÕ QUÊNhững ngày đầu xuân Giáp Thân, giới văn nghệ sĩ Thừa Thiên Huế vô cùng thương tiếc khi nghe tin nhà thơ Xuân Hoàng đã từ trần vào ngày mồng 3 Tết (24.1.2004) tại Thành phố Hồ Chí Minh. Sự ra đi của nhà thơ Xuân Hoàng là một tổn thất lớn đối với phong trào văn học của khu vực Bình Trị Thiên ruột thịt và của cả nước.

  • HỒ THẾ HÀ Ngày thơ Việt Nam chính thức được mang tên, đến nay, đã tròn một năm. Một năm là khoảng thời gian rất ngắn, nhưng trong ý nghĩ và dự cảm của mọi người suốt dòng chảy văn hoá, để thi ca trở thành hiện thực như hôm nay là một quá trình trải nghiệm của lịch sử và truyền thống lâu dài của dân tộc Việt Nam-một dân tộc yêu thi ca, có tiềm năng, trữ lượng và những giá trị thi ca không bao giờ vơi cạn.

  • PV: Là một nhà văn nổi tiếng với những tập truyện ngắn Người sông Hương, Làng thức... và các tiểu thuyết Ngoại ô, Dòng sông phẳng lặng (3 tập), Phía ấy là chân trời... những đứa con tinh thần của anh ra đời gần như tập trung liên tục trong khoảng hơn mười năm (trước và sau 1975). Trừ một số bài viết ngắn đăng ở báo và tạp chí, nếu tôi không nhầm thì, tác phẩm gần đây nhất của anh, tiểu thuyết Phía ấy là chân trời, hình như xuất bản từ năm 1988? Tại sao anh "dừng lại" đột ngột và lâu như vậy?Tô Nhuận Vỹ (TNV): Với lý do gì đi nữa thì việc "tịt đẻ" lâu như vậy cũng là chuyện chẳng hay gì đối với một nhà văn. Trong thời gian tôi "tạm dừng" đó, nhiều tác giả bạn bè tôi đã lao động miệt mài, "đẻ" hàng chục "đứa con tinh thần" rồi đó.

  • NGUYỄN ĐÌNH SÁNGNăm 1975, lần đầu tiên tôi gặp nhạc sỹ Trần Hoàn tại Hà Nội. Lúc đó, tôi đang an dưỡng tại Ban thống nhất Trung ương và có ý định xin về Huế công tác. Nhà thơ Cù Huy Cận Thứ trưởng Bộ Văn hoá Thông tin lúc bấy giờ đã bảo tôi đến gặp nhạc sỹ Trần Hoàn để trình bày nguyện vọng. Anh tiếp tôi với một ngôn ngữ hết sức dân dã, mang đậm chất miền trung. Anh hỏi: “Mi quê mô?” Tôi thưa cùng anh: “Em người Quảng Trị.” Anh hỏi tiếp: “Rứa mi học cái chi?” Tôi thưa: “Em học thanh nhạc tại Nhạc viện Hà Nội.” Anh nheo mắt cười và trả lời: “Đồng ý! Lên Bộ Văn hoá làm quyết định rồi về công tác. Trong miềng chừ nhiều việc lắm...”.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOTôi biết nhạc sĩ Trần Hoàn vĩnh biệt cõi trần vào lúc 5 giờ 6 phút ngày 23 tháng 11 tại bệnh viện Hữu Nghị Hà Nội, nhờ cú điện thoại của một nhà báo gọi đến đặt bài. Đã mấy hôm nay biết ông hôn mê sâu, khó qua khỏi mệnh trời, nhưng khi nghe tin ông qua đời, tôi vẫn chưa tin là ông đã mất.

  • NGUYỄN TUYẾN TRUNGLâu rồi tôi mới có dịp đến thăm nhạc sĩ Mai Xuân Hoà và cô giáo Nguyễn Thị Hồng - hai vợ chồng đều đã nghỉ hưu, vẫn ở tại số nhà 71 đường Bến Nghé thành phố Huế.

  • HỮU THUTrong suốt ba nhiệm kỳ đảm đương cương vị Bí thư Tỉnh uỷ, với anh chị em làm báo, chú Vũ Thắng thường dành cho những ưu ái, đó là có thể gặp gỡ vào bất cứ lúc nào, dù ở cơ quan hay nhà riêng. Do vậy mà ngôi nhà cũ ở đường Mai Thúc Loan quá đỗi thân thiết với nhiều người làm báo, trong đó có tôi.

  • VÕ QUANG YẾNỞ Pháp ngưòi ta thường bảo một con chim én không đủ để báo mùa xuân. Tôi thì tin một nữ sĩ có thể chiếu sáng một chiều thu lá vàng mưa bay nhưng không phải bất cứ ai cũng có thể là nữ sĩ ấy. Chị là thi sĩ Tôn Nữ Hỷ Khương, ái nữ của cụ Ưng Bình Thúc Giạ Thị.

  • NGUYỄN HUY THẮNGNhững ngày đầu tháng 12-1954, người dân Hà Nội và khắp các vùng xung quanh nô nức kéo đến Nhà hát Nhân dân xem “văn công”. Văn công là từ bấy giờ dùng để chỉ những buổi biểu diễn văn nghệ trên sân khấu nói chung. Nhưng đợt “văn công” cuối năm 54 ấy mang một tính chất đặc biệt, vì là một đại hội có quy mô lớn (Đại hội Văn công toàn quốc), từ kháng chiến về, lần đầu tiên ra mắt công chúng Thủ đô vừa thoát khỏi ách tạm chiếm.