Mừng nhà văn Ba Kim đại thọ 100 tuổi

16:44 04/02/2009
HỒ SĨ HIỆPBa Kim, tên thật là Lý Nghiêu Đường, tự Thị Cam, sinh năm 1904, người Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên. Ông viết văn rất sớm, nổi tiếng trên văn đàn từ thời "ngũ tứ vận động" (1919) và hoạt động văn học sôi nổi từ những năm 30, 40 của thế kỷ trước, tên tuổi ngang hàng với các nhà văn Mao Thuẫn, Tào Ngu và Lão Xá.

Nhà văn Ba Kim (nguồn: www.tuoitre.com.vn)

Năm 1928, ông cho ra đời tác phẩm truyện dài đầu tiên là "Diệt vong". Năm 1934, sau khi đọc vở kịch "Lôi vũ", ông rất khâm phục tài năng sáng tác của Tào Ngu và hai người quan hệ mật thiết từ đó. Ông cũng quen thân với những nhà văn nổi tiếng Băng Tâm và Tiêu Càn.
Sau khi nước Trung Hoa mới ra đời (1949), Ba Kim hăng hái đi vào cuộc sống để sáng tác. Ông đến hầm mỏ, công trường, nhà máy tìm hiểu đời sống của công nhân và phản ánh tâm tư, nguyện vọng của họ trong tác phẩm. Đầu những năm 50, ông hai lần đến Triều Tiên và nhiều lần ra nước ngoài giao lưu văn hóa. Mười bảy năm trước khi xảy ra "Cách mạng văn hóa" (1949 - 1966) là thời gian sáng tác sung sức nhất của Ba Kim. Thể loại chủ yếu của ông là tản văn phản ánh sinh động công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa trên đất nước Trung Hoa mới. Đó là tác phẩm "Ngày Tết của Hoa Sa", "Cuộc sống giữa những người anh hùng", “Mọi người bảo vệ tổ quốc”, “Những ngày đầy vui vẻ”, “Tân thanh tập”, "Hữu nghị tập", "Tản ca tập", "Tình cảm thổ lộ không hết", "Bên bờ cầu Hiền Lương", "Bắc tái hành". Trong số này, "Bên bờ cầu Hiền Lương" là một tập tản văn Ba Kim viết sau chuyến đi thăm Việt . Lời văn trong tác phẩm tràn đầy cảm xúc, nói lên cảm tình đặc biệt của nhân dân Trung Quốc với cuộc đấu tranh thống nhất đất nước và xây dựng CNXH của nhân dân ta. Trong "Cách mạng văn hóa" (1966 - 1976) cũng như nhiều nhà văn chân chính khác, ông bị đả kích, bức hại và việc sáng tác văn học bị gián đoạn. Sau khi đập tan tập đoàn phản động "Bè lũ bốn tên", ông lại hăng hái trở lại sáng tác với niềm lạc quan và phấn khởi chưa từng có. Từ năm 1978 trở đi, Ba Kim bước vào giai đoạn sáng tác mới. Năm 1979 ông sang Pháp và có sự nhận thức về vị trí của văn học đương đại Trung Quốc đối với thế giới. Về nước, ông tích cực đề nghị nhà nước xây thư viện bảo quản những tác phẩm văn học hiện đại Trung Quốc.

Ba Kim là nhà văn đa tài, sáng tác nhiều thể loại (tản văn, tiểu thuyết và dịch thuật) nhưng thành công nổi bật của ông là tản văn. Tản văn của ông đề tài rộng lớn, nội dung phong phú. Tản văn 17 năm sau khi dựng nước của Ba Kim có thể chia làm mấy loại sau đây:
Loại thứ nhất là phản ảnh cuộc sống chiến đấu của chí nguyện quân Trung Quốc trong cuộc chiến tranh "Kháng Mỹ viện Triều", ngợi ca những nhân vật anh hùng, như các tác phẩm: "Chúng tôi đã gặp tư lệnh Bành Đức Hoài", "Cuộc sống giữa những người anh hùng", "Bình Nhưỡng, thành phố anh hùng". Loại thứ hai là Hoài niệm, tiếc thương danh nhân, bạn bè, như: các tác phẩm "Nhớ Lỗ Tấn tiên sinh", "Đêm thu" và "Một buổi sớm mùa thu". Loại thứ ba là miêu tả cảm xúc trước cuộc sống mới, như các tác phẩm: "Thượng Hải, mảnh đất xinh đẹp, chúng ta", "Những ngày tràn đầy vui vẻ". Loại thứ tư là miêu tả tình cảm, những điều mắt thấy tai nghe ở nước ngoài và ca ngợi tình hữu nghị với bạn bè bốn phương, như các tác phẩm: "Ngày Tết của Hoa Sa", "Núi Phú Sĩ và hoa anh đào ..." và "Bên bờ cầu Hiền Lương".

Bước vào thời kỳ mới (từ năm 1978 trở đi), tản văn của Ba Kim có nhiều thay đổi về nội dung và nghệ thuật. Về nội dung, theo như ông nói là "nói những lời chân thực". Ông nhấn mạnh "con người chỉ có nói lời chân thực mới có thể sống một cách chân thực" (Chân thực tập). Năm tập trong "Tùy tưởng lục" có thể coi là "những lời nói thực" xuất phát từ nhận thực và đáy lòng của tác giả. "Hoài niệm Tiêu San" cũng là tác phẩm "nói những lời chân thật". Tiêu San là vợ của Ba Kim. Bà là một phụ nữ xinh đẹp, lương thiện nhưng trong "Cách mạng văn hóa" bị Đức hại chết. Trước khi chết bà vẫn bình tĩnh, hai mắt mở to. Ba Kim cảm thấy "hai mắt ấy nhìn rất to, rất đẹp, rất sáng, tôi nhìn, nhìn mãi, giống như nhìn nhanh một ngọn lửa cháy sắp tắt". Tình cảm đối với Tiêu San rất sâu sắc và sự tôn kính của ông rất cao độ. Ba Kim muốn viết một bài văn để kỷ niệm ngày vợ qua đời nhưng ông "trái lại viết không được một câu nào". Sáu năm sau, khi "bè lũ bốn tên" bị đập tan, ông mới đặt bút viết "Hoài niệm Tiêu San".
Tháng 4 - 1979, Ba Kim lại đến thăm Paris . Thủ đô của nước Pháp. Ông ở một khách sạn gần Khải Hoàn Môn. Mỗi khi đi qua một phố nhỏ yên tĩnh, nhìn thấy cửa sổ có treo tấm lụa trắng, ông lại liên tưởng đến đại lộ Trường An ở Bắc Kinh, đường Hoài Hải ở Thượng Hải, Tây Hồ ở Hàng Châu và thôn làng ở Quảng Đông. Mặc dù đang ở Paris nhưng tâm hồn, tình cảm của ông luôn luôn hướng về quê hương và Tổ quốc.

Sự nghiệp sáng tác văn học của Ba Kim rất phong phú. Trong văn học hiện đại (1919 - 1949) và văn học đương đại (từ 1949 trở đi) ở Trung Quốc, tên tuổi của Ba Kim ngang hàng với các nhà văn lớn khác. Tác phẩm chủ yếu của Ba Kim gồm có truyện dài "Ái tình Tam bộ khúc" (gồm Vụ, Vũ và Điện), "Kích lưu Tam bộ khúc" (gồm Gia, Xuân, Thu) và "Kháng chiến Tam bộ khúc" (lửa 1, lửa 2 và lửa 3). Truyện vừa gồm có "Ngày thu trong mùa xuân", "Khệ Viên" và "Đêm lạnh". Tản văn có "Tùy tưởng lục" (gồm 5 tập) là "Chân thoại tập", "Bệnh trung tập", "Vô đề tập", "Tìm tòi tập" và "Tùy tưởng lục". Tác phẩm dịch có "Cha và con" của nhà văn Nga Tuốcghênhép. Tác phẩm tiêu biểu của Ba Kim có anh hưởng trong và ngoài nước nhất là "Gia" (Nhà), "Xuân" (Mùa xuân), "Thu" (Mùa thu). Ba tác phẩm này "có ý nghĩa của như khúc quân hành của thời đại, nó có tác dụng như một bài học vỡ lòng đối với lớp thanh niên chống phong kiến" (văn học Trung Quốc). Thông qua sự sa sút, phân hóa cao độ của một đại gia đình và cách nhìn hiện thực khách quan của tác giả bộ ba tác phẩm đã miêu tả cảnh sụp đổ không gì cứu vãn nỗi của chế độ phong kiến Trung Quốc đương thời. Trong ba tác phẩm Ba Kim đã tìm thấy sức mạnh vĩ đại của trào lưu cách mạng dâng lên làn sóng mạnh mẽ có khả năng làm thay đổi cuộc sống cũ trong tầng lớp thanh niên. Với tình cảm sục sôi, kiên quyết, tác giả lên án và đã kích mạnh mẽ thế lực phong kiến và nhiệt thành gợi ca sự giác ngộ, tự nguyện đứng dậy, vươn lên và tiến tới của một bộ phận tầng lớp thanh niên trí thức Trung Quốc.

Hơn hai trăm năm trước, Tào Tuyết Cần cho ra đời tác phẩm nổi tiếng "Hồng lâu mộng". Kế tục truyền thống vạch trần và lên án của "Hồng lâu mộng", bộ ba tác phẩm "Gia", "Xuân" và "Thu" của Ba Kim miêu tả sự suy vong tất yếu của gia đình phong kiến Trung Quốc. Cuộc đời và số phận của những nhân vật như Như Mai, Thụy Ngọc, Minh Phương, Uyển Nhi và Giác Huệ trong tác phẩm của Ba Kim như sống dậy trước mắt độc giả con người thật, sự việc thật của giai cấp phong kiến Trung Quốc trước thời "Ngũ tứ vận động". Mấy mươi năm trước "Gia" (Nhà) của Ba Kim được dịch ra tiếng Việt và rất được độc giả Việt hoan nghênh. Những năm gần đây, tác phẩm "Tùy tưởng lục" của ông cũng ra mắt ở Việt , đem đến cho độc giả một cảm nhận mới về phong cách nghệ thuật của Ba Kim. Dù thể loại nào, tác phẩm của Ba Kim cũng để lại cho người đọc những ấn tượng tốt đẹp. Hình tượng nhân vật trong tác phẩm của ông sống động như có máu, có thịt. Tác phẩm của ông không dựa vào miêu tả khách quan mà nhờ vào tình cảm sục sôi của người viết. Tiểu thuyết của ông tuy nhiều nhân vật, nhiều mối đan xen, chồng chéo nhưng được miêu tả có tình tự, thứ lớp rõ ràng. Tác phẩm "Tùy tưởng lục" sáng tác trong thời cuối đời thể hiện một cách sống động của một trái tim chân thành, thẳng thắn và tâm hồn trong sáng của ông.

Ba Kim là nhà văn coi trọng sự chân thực hơn là kỹ xảo văn học. Các nhà văn Trung Quốc luôn luôn nhớ đến câu nói nổi tiếng trở thành danh ngôn của ông là "Cảnh giới cao nhất của nghệ thuật là không có kỹ xảo" và "Tôi không theo đuổi kỹ xảo".
Trong thời gian tham dự "Hội thảo giảng dạy Hán ngữ quốc tế lần thứ 7" tổ chức tại Thượng Hải, chúng tôi tranh thủ thời gian đến bệnh viện Hoa Đông thăm Ba Kim, một nhà văn Trung Quốc lớn rất quen thuộc với nhân dân ta.
Từ khách sạn Thiên Hạc ở số 650 đường Nghi Sơn, qua mấy tuyến xe buýt vừa đi vừa hỏi đường, chúng tôi tìm đến được đường Hoa Sơn, Ô Lỗ Mộc Tề, từ đó tìm đến đường Diên An để lần tìm ra bệnh viện Hoa Đông, nơi Ba Kim đang nằm điều trị dài hạn tại đây.

Bệnh viện Hoa Đông gần bệnh viện Hoa Sơn. Hai bệnh viện này đều nằm ở mặt tiền đường, nhà cửa cao to, thoáng mát và sạch sẽ. Bệnh viện Hoa Đông ở số nhà 221 đường Diên An. Đường Diên An rộng dài, có cầu vượt chạy qua. Bệnh viện Hoa Đông gồm hai khu vực: Khu bệnh nhân thường và khu bệnh nhân chăm sóc đặc biệt. Chúng tôi đến bệnh viện vào ngày chủ nhật, không khí của bệnh viện rất vắng vẻ, yên tĩnh, chỉ có đội bảo vệ và nhân viên làm việc bên ngoài. Chúng tôi đến phòng thường trực, xuất trình giấy tờ và nói là người Việt Nam đến dự Hội thảo tại Thượng Hải và nhân đó đến thăm nhà văn Ba Kim đang nằm điều trị tại đây. Từng bước bước lên cầu thang, nhìn thấy phòng điều trị của Ba Kim, chúng tôi rất phấn khởi. Tuy không nhìn thấy Ba Kim, không được hỏi thăm sức khỏe của ông nhưng chúng tôi vô cùng mãn nguyện và tự hào là vượt qua hơn 4 ngàn cây số để được thăm một trong những nhà văn lớn nhất của Trung Quốc và thế giới trong thế kỷ 20. Còn Ba Kim ông cũng không biết ở bên ngoài cánh cửa phòng có một độc giả người Việt yêu mến ông mà tìm đến bệnh viện để được biết tình hình sức khỏe và được ngắm nhìn ông những giờ phút cuối đời...

Mỗi nhà văn đều có một quê hương để mình gắn bó. Đến Bắc Kinh, chúng tôi nhớ đến Lão Xá. Đến Thượng Hải, chúng tôi không sao quên được Mao Thuẫn và Ba Kim. Một người văn chương tài giỏi như Ba Kim mà suốt đời gian nan, lận đận. "Cách mạng văn hóa" ông bị hành hạ. Bước vào thời kỳ mới, tuy tuổi già, sức yếu nhưng trái tim ông vẫn luôn hướng về đất nước và văn học. Đến thăm Bắc Kinh, chúng tôi có dịp lại đến thăm "Thư Viện Văn học hiện đại Trung Quốc" do ông đề xướng đã được xây dựng. Mặc dù ở Việt nhưng chúng tôi vẫn luôn theo dõi về tình hình sức khỏe của Ba Kim - nhà văn những năm đầu thế kỷ 20 cuối cùng vẫn còn trường thọ ở tuổi 100 (năm 2004).       
H.S.H

(nguồn: TCSH số 191 - 01 - 2005)

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN QUANG HÀTạp chí sáu tỉnh Bắc miền Trung vẫn duy trì đều đặn hàng năm gặp gỡ giao lưu để cùng tìm cách nâng cao chất lượng tờ tạp chí văn học của địa phương mình. Năm nay, năm 2003 Tạp chí Nhật Lệ đến phiên đăng cai cuộc họp mặt. Khách mời năm nay, ngoài các cơ quan trong tỉnh Quảng Bình, còn có đại biểu của Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương, của Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam, của tạp chí Diễn đàn, cơ quan ngôn luận của Hội về dự.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOLTS: Nhà thơ Thu Bồn có nhiều duyên nợ với Huế, với Sông Hương. 20 năm trước, trong dịp TCSH ra đời, anh có mặt ở Huế và viết bài thơ “Tạm biệt” - một trong ít ỏi những bài thơ hay nhất về Huế, 20 năm sau, cũng vào dịp TCSH kỷ niệm tròn 20 tuổi thì anh lại ra đi, ra đi trong lời vĩnh biệt!Thương tiếc nhà thơ tài hoa Thu Bồn, Sông Hương xin trân trọng giới thiệu một vài kỷ niệm vaì tình cảm của bạn bè, đồng nghiệp dành cho anh.                                                                TCSH

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNVề chính trị, ông được chữ nhất: Đại biểu quốc hội trẻ nhất (22 tuổi, khóa I năm 1946); Tổng thư ký Hội Nhà văn lâu nhất (1958 – 1989).Về văn nghệ, ông được chữ đa: đa tài, sáng tác nhiều lĩnh vực, và để lại dấu ấn: thơ (Người chiến sĩ, Tia nắng, Sóng reo), văn (Vỡ bờ), kịch (Con nai đen, Nguyễn Trãi ở Đông Quan, Rừng trúc), nhạc (Diệt phát xít, Người Hà Nội), tiểu luận (Mấy vấn đề văn học, Công việc của người viết tiểu thuyết).

  • ...Có 2 từ người Việt Nam hay dùng cho những người làm thuê các công việc cho người khác là: "Lê dương" và "Pắc chung hy". Chả biết từ bao giờ, bạn bè gọi tôi là "Kha lê dương" bên cạnh các biệt hiệu khác như "Kha điên", "Kha voi", "Kha xe bò miên". Là gì thì cũng vẫn là Kha. Thiếu em ư? Đúng ra là tôi không thể sống thiếu tình yêu như một câu thơ tôi đã viết: "Điều khốn nạn là không thể nào khác được - không thể không tình yêu, không tin ở con người"...

  • ... Với giới văn nghệ sĩ thừa Thiên Huế, nhà văn Nguyễn Đình Thi là người anh lớn, rất thân thiết và gần gũi qua nhiều năm tháng. Anh là tấm gương sáng trên nhiều lĩnh vực sáng tác, quản lý, hoạt động phong trào... Đã có nhiều tác động tích cực, ảnh hưởng tốt đẹp cho một số cây bút ở Thừa Thiên Huế; đồng thời đã để lại nhiều kỷ niệm đẹp trong đời sống văn học Thừa Thiên Huế.Sự ra đi của nhà văn Nguyễn Đình Thi là một tổn thất lớn đối với nền văn học nghệ thuật nước nhà, để lại cho chúng ta niềm tiếc thương vô hạn.... Sự nghiệp sáng tạo văn học nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Đình Thi vẫn sống mãi với chúng ta!                                 (Trích điếu văn của nhà thơ Võ Quê)

  • ĐÀO DUY HIỆPGiáo sư, nhà giáo ưu tú Đỗ Đức Hiểu đã không còn nữa.Đã vĩnh biệt chúng ta một nhà sư phạm hiền từ, một nhà khoa học khiêm tốn và có nhiều phát hiện, một con người đầy lòng nhân ái, tin yêu cuộc sống và suốt đời đã sống vì cái đẹp của văn chương, nghệ thuật. Mười bảy giờ bốn mươi nhăm phút ngày 27 tháng 2 năm 2003 đã là thời khắc đó – cái thời khắc đã chia cách hai thế giới từ nay âm dương cách trở giữa giáo sư Đỗ Đức Hiểu với chúng ta. Ông đã để lại sau mình một cuộc đời dài nhiều ý nghĩa.

  • NGUYỄN HOÀNGTrong cuộc đời 83 năm của mình, bác sĩ Nguyễn Khắc Viện (BS.NKV) không chỉ một lần tình nguyện đem cuộc đời mình làm... vật thí nghiệm để có được một kết luận khoa học. Lần đầu, nửa thế kỷ trước, tại Pháp, sau 7 lần lên bàn mổ, cắt mất hẳn lá phổi trái, 1/3 lá phổi bên phải và 8 xương sườn (do bị lao mà thời đó chưa có thuốc chữa đặc hiệu), thấy rõ y học phương Tây không cứu được mình, BS. NKV đã vận dụng phương pháp Yoga của Ấn Độ và khí công của Trung Quốc trên cơ sở phân tích sinh lý, tâm lý và giải phẫu cơ thể con người, tự cứu sống mình, hình thành nên phương pháp “dưỡng sinh Nguyễn Khắc Viện” ngày nay.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNVào dịp Tết Bính Thìn, Tết dân tộc cổ truyền đầu tiên sau giải phóng, Viện Đại học Huế nhận được một bưu thiếp chúc Tết đặc biệt của vị Thủ tướng kính mến thời đó - Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Nhà trường đã cho viết to bức thư của Thủ tướng viết sau cánh thiếp lên một tấm bảng lớn, trân trọng đặt tại Hội trường của Viện Đại học Huế.

  • TÔ NHUẬN VỸTôi có một cái va ly nhỏ dùng để đựng những vật kỷ niệm, những thư từ, những bức ảnh quý nhất của mình. Trong số kỷ vật quý giá đó, có bức thư của anh Tố Hữu gửi tôi và anh Hoàng Phủ Ngọc Tường, tháng 3/1987, kèm theo là bài thơ Nhớ về anh được đánh máy trên giấy Pơ luya vàng nhạt, kiểu chữ ở một cái máy nào đó mà  mới nhìn biết ngay là từ một cái máy chẳng lấy gì làm tốt, để "Kỷ niệm lần thứ 80 ngày sinh mồng 7 tháng 4 của đồng chí Lê Duẩn”.

  • LÊ MỸ Ý ghi                (Trích)Khi tôi đến, hai ông đang ngồi chiếu rượu trong căn hộ chung cư sáu tầng cao ngất ngưởng. Căn phòng như được ghép bằng sách. Trên tường, ảnh Văn Cao đang nâng ly và bức sơn dầu "Tuổi Đá Buồn" Bửu Chỉ vẽ Trịnh Công Sơn dựa vào cây đàn ghita ngóng nhìn vô định. Ngẫu nhiên tôi trở thành người hầu rượu, nói đế cho cuộc đối thoại ngẫu nhiên của hai ông...

  • MAI VĂN HOANThầy giáo dạy văn                                      Tặng Mai Văn HoanHộ tập thể nằm trên gác xépCăn phòng thanh đạm, có gì đâu!Một chồng sách cũ, dăm chai nướcMột chiếc bàn con, một bếp dầu...

  • THANH THẢOThái Ngọc San khác với một số người bạn Huế mà tôi chơi: anh ít nói, ít nói đến lặng thinh, ít nói nhiều khi đến sốt cả ruột. Nhưng nhiều lúc, vui anh vui em, rượu vào lời ra, San cũng nói hăng ra phết. Những lúc ấy, cứ nghĩ như anh nói để giải toả, nói bù cho những lúc im lặng.

  • PHAN HỮU DẬTLTS: GS.TS Phan Hữu Dật là người làng Thanh Lương, xã Hương Xuân, huyện Hương Trà, TT Huế, hiện nghỉ hưu tại Hà Nội. Giáo sư từng là Trưởng ban phụ trách Đại học Văn khoa Sài Gòn (1976), Hiệu trưởng Đại học Tổng hợp Hà Nội (1985-1988). Bài viết dưới đây do Giáo sư đọc trong Lễ kỷ niệm 90 năm ngày sinh của nhà thơ Vĩnh Mai (1918-2008), như một sự tri ân đối với người mà Giáo sư xem như là người thầy, người thủ trưởng, người đồng chí... với những tư liệu mới mẻ và góc nhìn thấu đáo. Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài viết này cùng bạn đọc.

  • NGÔ MINHTác phẩm văn học nghệ thuật là sáng tạo của mỗi tác giả hội viên; đồng thời là thước đo hiệu quả hoạt động của Hội trong một nhiệm kỳ. Nói cách khác, tất cả mọi hoạt động của Hội đều hướng về hội viên, hướng về việc làm sao để có những tác phẩm văn học nghệ thuật chất lượng ngày càng cao. Nếu không thì sinh ra Hội để làm gì?

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀOVà tôi đã rời xa Huế vào những ngày mà chính tôi cũng không muốn một chút nào. Có lẽ, không ai trách được sự sắp xếp và an bài của cuộc sống. Dù rằng Huế đối với tôi là ân nghĩa, là những kỷ niệm khó phai thì rồi cũng phải tự tạ từ. Trong sâu thẳm đáy lòng, khi nhìn những đêm trăng phả xuống thành phố tôi đang sống, tôi lại quay lòng nhớ Huế, dẫu một chút thôi, hơi thở của tôi đã không được đắp bồi bởi Huế.

  • VÕ MẠNH LẬPTôi đọc một bài. Không! Chỉ là một đoạn nhưng vừa đủ ngẫm - mà thú vị. Đó là cô gái với cái tên quen mà lạ. Cô ta phân bày quê chôn nhau cắt rốn xa xa ngoài tê tề. Cha mẹ cô đèo bòng vô ở tại một thị xã miền Trung. Sau cùng cô lại ở Huế học hành, lớn lên, đôi lúc bạn bè xa đến cứ ngỡ cô là Huế ròng.

  • L.T.S: Nhà thơ, nhà báo Thái Ngọc San sinh năm 1947 tại Lệ Thuỷ, Quảng Bình nguyên Thư kí Toà soạn Tạp chí Sông Hương, chuyển công tác qua phụ trách văn phòng liên lạc báo Thanh Niên tại T.T. Huế đã từ trần vào lúc 0giờ 45 phút ngày 25.7.2005 sau một tai nạn giao thông oan nghiệt.Thương tiếc anh, Sông Hương mở thêm trang để bạn bè, đồng nghiệp cùng chia sẻ và thắp nén tâm hươngKhi chúng tôi được tin buồn về anh San thì số báo tháng 8 đã in xong; Tình thế “chữa cháy” này không sao tránh khỏi những bất cập, mong các tác giả cùng quý bạn đọc lượng thứ.

  • L.T.S: Đại hội VHNT Thừa Thiên Huế lần thứ X sẽ được tổ chức vào cuối tháng 8 năm nay. Để đại hội có tiếng nói dân chủ rộng rãi, TCSH xin “dành đất” cho các anh chị hội viên, các bạn đọc quan tâm tham gia ý kiến trao đổi về nghề nghiệp, về hoạt động của Hội, về tổ chức hội v.v...Ngoài các ý kiến đã đăng tải trên số này, chúng tôi sẽ tiếp tục in thêm các ý kiến khác trong số tới

  • ĐÔNG HÀTôi không sinh ra ở Huế, nhưng với tuổi đời chưa quá ba mươi mà đã hơn hai mươi năm sống ở đất Kinh thành, đó cũng một sự gắn bó không thành tên.

  • THU NGUYỆT                (Trích tham luận tại Đại hội VII  Hội Nhà văn Việt Nam)