Mừng nhà văn Ba Kim đại thọ 100 tuổi

16:44 04/02/2009
HỒ SĨ HIỆPBa Kim, tên thật là Lý Nghiêu Đường, tự Thị Cam, sinh năm 1904, người Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên. Ông viết văn rất sớm, nổi tiếng trên văn đàn từ thời "ngũ tứ vận động" (1919) và hoạt động văn học sôi nổi từ những năm 30, 40 của thế kỷ trước, tên tuổi ngang hàng với các nhà văn Mao Thuẫn, Tào Ngu và Lão Xá.

Nhà văn Ba Kim (nguồn: www.tuoitre.com.vn)

Năm 1928, ông cho ra đời tác phẩm truyện dài đầu tiên là "Diệt vong". Năm 1934, sau khi đọc vở kịch "Lôi vũ", ông rất khâm phục tài năng sáng tác của Tào Ngu và hai người quan hệ mật thiết từ đó. Ông cũng quen thân với những nhà văn nổi tiếng Băng Tâm và Tiêu Càn.
Sau khi nước Trung Hoa mới ra đời (1949), Ba Kim hăng hái đi vào cuộc sống để sáng tác. Ông đến hầm mỏ, công trường, nhà máy tìm hiểu đời sống của công nhân và phản ánh tâm tư, nguyện vọng của họ trong tác phẩm. Đầu những năm 50, ông hai lần đến Triều Tiên và nhiều lần ra nước ngoài giao lưu văn hóa. Mười bảy năm trước khi xảy ra "Cách mạng văn hóa" (1949 - 1966) là thời gian sáng tác sung sức nhất của Ba Kim. Thể loại chủ yếu của ông là tản văn phản ánh sinh động công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa trên đất nước Trung Hoa mới. Đó là tác phẩm "Ngày Tết của Hoa Sa", "Cuộc sống giữa những người anh hùng", “Mọi người bảo vệ tổ quốc”, “Những ngày đầy vui vẻ”, “Tân thanh tập”, "Hữu nghị tập", "Tản ca tập", "Tình cảm thổ lộ không hết", "Bên bờ cầu Hiền Lương", "Bắc tái hành". Trong số này, "Bên bờ cầu Hiền Lương" là một tập tản văn Ba Kim viết sau chuyến đi thăm Việt . Lời văn trong tác phẩm tràn đầy cảm xúc, nói lên cảm tình đặc biệt của nhân dân Trung Quốc với cuộc đấu tranh thống nhất đất nước và xây dựng CNXH của nhân dân ta. Trong "Cách mạng văn hóa" (1966 - 1976) cũng như nhiều nhà văn chân chính khác, ông bị đả kích, bức hại và việc sáng tác văn học bị gián đoạn. Sau khi đập tan tập đoàn phản động "Bè lũ bốn tên", ông lại hăng hái trở lại sáng tác với niềm lạc quan và phấn khởi chưa từng có. Từ năm 1978 trở đi, Ba Kim bước vào giai đoạn sáng tác mới. Năm 1979 ông sang Pháp và có sự nhận thức về vị trí của văn học đương đại Trung Quốc đối với thế giới. Về nước, ông tích cực đề nghị nhà nước xây thư viện bảo quản những tác phẩm văn học hiện đại Trung Quốc.

Ba Kim là nhà văn đa tài, sáng tác nhiều thể loại (tản văn, tiểu thuyết và dịch thuật) nhưng thành công nổi bật của ông là tản văn. Tản văn của ông đề tài rộng lớn, nội dung phong phú. Tản văn 17 năm sau khi dựng nước của Ba Kim có thể chia làm mấy loại sau đây:
Loại thứ nhất là phản ảnh cuộc sống chiến đấu của chí nguyện quân Trung Quốc trong cuộc chiến tranh "Kháng Mỹ viện Triều", ngợi ca những nhân vật anh hùng, như các tác phẩm: "Chúng tôi đã gặp tư lệnh Bành Đức Hoài", "Cuộc sống giữa những người anh hùng", "Bình Nhưỡng, thành phố anh hùng". Loại thứ hai là Hoài niệm, tiếc thương danh nhân, bạn bè, như: các tác phẩm "Nhớ Lỗ Tấn tiên sinh", "Đêm thu" và "Một buổi sớm mùa thu". Loại thứ ba là miêu tả cảm xúc trước cuộc sống mới, như các tác phẩm: "Thượng Hải, mảnh đất xinh đẹp, chúng ta", "Những ngày tràn đầy vui vẻ". Loại thứ tư là miêu tả tình cảm, những điều mắt thấy tai nghe ở nước ngoài và ca ngợi tình hữu nghị với bạn bè bốn phương, như các tác phẩm: "Ngày Tết của Hoa Sa", "Núi Phú Sĩ và hoa anh đào ..." và "Bên bờ cầu Hiền Lương".

Bước vào thời kỳ mới (từ năm 1978 trở đi), tản văn của Ba Kim có nhiều thay đổi về nội dung và nghệ thuật. Về nội dung, theo như ông nói là "nói những lời chân thực". Ông nhấn mạnh "con người chỉ có nói lời chân thực mới có thể sống một cách chân thực" (Chân thực tập). Năm tập trong "Tùy tưởng lục" có thể coi là "những lời nói thực" xuất phát từ nhận thực và đáy lòng của tác giả. "Hoài niệm Tiêu San" cũng là tác phẩm "nói những lời chân thật". Tiêu San là vợ của Ba Kim. Bà là một phụ nữ xinh đẹp, lương thiện nhưng trong "Cách mạng văn hóa" bị Đức hại chết. Trước khi chết bà vẫn bình tĩnh, hai mắt mở to. Ba Kim cảm thấy "hai mắt ấy nhìn rất to, rất đẹp, rất sáng, tôi nhìn, nhìn mãi, giống như nhìn nhanh một ngọn lửa cháy sắp tắt". Tình cảm đối với Tiêu San rất sâu sắc và sự tôn kính của ông rất cao độ. Ba Kim muốn viết một bài văn để kỷ niệm ngày vợ qua đời nhưng ông "trái lại viết không được một câu nào". Sáu năm sau, khi "bè lũ bốn tên" bị đập tan, ông mới đặt bút viết "Hoài niệm Tiêu San".
Tháng 4 - 1979, Ba Kim lại đến thăm Paris . Thủ đô của nước Pháp. Ông ở một khách sạn gần Khải Hoàn Môn. Mỗi khi đi qua một phố nhỏ yên tĩnh, nhìn thấy cửa sổ có treo tấm lụa trắng, ông lại liên tưởng đến đại lộ Trường An ở Bắc Kinh, đường Hoài Hải ở Thượng Hải, Tây Hồ ở Hàng Châu và thôn làng ở Quảng Đông. Mặc dù đang ở Paris nhưng tâm hồn, tình cảm của ông luôn luôn hướng về quê hương và Tổ quốc.

Sự nghiệp sáng tác văn học của Ba Kim rất phong phú. Trong văn học hiện đại (1919 - 1949) và văn học đương đại (từ 1949 trở đi) ở Trung Quốc, tên tuổi của Ba Kim ngang hàng với các nhà văn lớn khác. Tác phẩm chủ yếu của Ba Kim gồm có truyện dài "Ái tình Tam bộ khúc" (gồm Vụ, Vũ và Điện), "Kích lưu Tam bộ khúc" (gồm Gia, Xuân, Thu) và "Kháng chiến Tam bộ khúc" (lửa 1, lửa 2 và lửa 3). Truyện vừa gồm có "Ngày thu trong mùa xuân", "Khệ Viên" và "Đêm lạnh". Tản văn có "Tùy tưởng lục" (gồm 5 tập) là "Chân thoại tập", "Bệnh trung tập", "Vô đề tập", "Tìm tòi tập" và "Tùy tưởng lục". Tác phẩm dịch có "Cha và con" của nhà văn Nga Tuốcghênhép. Tác phẩm tiêu biểu của Ba Kim có anh hưởng trong và ngoài nước nhất là "Gia" (Nhà), "Xuân" (Mùa xuân), "Thu" (Mùa thu). Ba tác phẩm này "có ý nghĩa của như khúc quân hành của thời đại, nó có tác dụng như một bài học vỡ lòng đối với lớp thanh niên chống phong kiến" (văn học Trung Quốc). Thông qua sự sa sút, phân hóa cao độ của một đại gia đình và cách nhìn hiện thực khách quan của tác giả bộ ba tác phẩm đã miêu tả cảnh sụp đổ không gì cứu vãn nỗi của chế độ phong kiến Trung Quốc đương thời. Trong ba tác phẩm Ba Kim đã tìm thấy sức mạnh vĩ đại của trào lưu cách mạng dâng lên làn sóng mạnh mẽ có khả năng làm thay đổi cuộc sống cũ trong tầng lớp thanh niên. Với tình cảm sục sôi, kiên quyết, tác giả lên án và đã kích mạnh mẽ thế lực phong kiến và nhiệt thành gợi ca sự giác ngộ, tự nguyện đứng dậy, vươn lên và tiến tới của một bộ phận tầng lớp thanh niên trí thức Trung Quốc.

Hơn hai trăm năm trước, Tào Tuyết Cần cho ra đời tác phẩm nổi tiếng "Hồng lâu mộng". Kế tục truyền thống vạch trần và lên án của "Hồng lâu mộng", bộ ba tác phẩm "Gia", "Xuân" và "Thu" của Ba Kim miêu tả sự suy vong tất yếu của gia đình phong kiến Trung Quốc. Cuộc đời và số phận của những nhân vật như Như Mai, Thụy Ngọc, Minh Phương, Uyển Nhi và Giác Huệ trong tác phẩm của Ba Kim như sống dậy trước mắt độc giả con người thật, sự việc thật của giai cấp phong kiến Trung Quốc trước thời "Ngũ tứ vận động". Mấy mươi năm trước "Gia" (Nhà) của Ba Kim được dịch ra tiếng Việt và rất được độc giả Việt hoan nghênh. Những năm gần đây, tác phẩm "Tùy tưởng lục" của ông cũng ra mắt ở Việt , đem đến cho độc giả một cảm nhận mới về phong cách nghệ thuật của Ba Kim. Dù thể loại nào, tác phẩm của Ba Kim cũng để lại cho người đọc những ấn tượng tốt đẹp. Hình tượng nhân vật trong tác phẩm của ông sống động như có máu, có thịt. Tác phẩm của ông không dựa vào miêu tả khách quan mà nhờ vào tình cảm sục sôi của người viết. Tiểu thuyết của ông tuy nhiều nhân vật, nhiều mối đan xen, chồng chéo nhưng được miêu tả có tình tự, thứ lớp rõ ràng. Tác phẩm "Tùy tưởng lục" sáng tác trong thời cuối đời thể hiện một cách sống động của một trái tim chân thành, thẳng thắn và tâm hồn trong sáng của ông.

Ba Kim là nhà văn coi trọng sự chân thực hơn là kỹ xảo văn học. Các nhà văn Trung Quốc luôn luôn nhớ đến câu nói nổi tiếng trở thành danh ngôn của ông là "Cảnh giới cao nhất của nghệ thuật là không có kỹ xảo" và "Tôi không theo đuổi kỹ xảo".
Trong thời gian tham dự "Hội thảo giảng dạy Hán ngữ quốc tế lần thứ 7" tổ chức tại Thượng Hải, chúng tôi tranh thủ thời gian đến bệnh viện Hoa Đông thăm Ba Kim, một nhà văn Trung Quốc lớn rất quen thuộc với nhân dân ta.
Từ khách sạn Thiên Hạc ở số 650 đường Nghi Sơn, qua mấy tuyến xe buýt vừa đi vừa hỏi đường, chúng tôi tìm đến được đường Hoa Sơn, Ô Lỗ Mộc Tề, từ đó tìm đến đường Diên An để lần tìm ra bệnh viện Hoa Đông, nơi Ba Kim đang nằm điều trị dài hạn tại đây.

Bệnh viện Hoa Đông gần bệnh viện Hoa Sơn. Hai bệnh viện này đều nằm ở mặt tiền đường, nhà cửa cao to, thoáng mát và sạch sẽ. Bệnh viện Hoa Đông ở số nhà 221 đường Diên An. Đường Diên An rộng dài, có cầu vượt chạy qua. Bệnh viện Hoa Đông gồm hai khu vực: Khu bệnh nhân thường và khu bệnh nhân chăm sóc đặc biệt. Chúng tôi đến bệnh viện vào ngày chủ nhật, không khí của bệnh viện rất vắng vẻ, yên tĩnh, chỉ có đội bảo vệ và nhân viên làm việc bên ngoài. Chúng tôi đến phòng thường trực, xuất trình giấy tờ và nói là người Việt Nam đến dự Hội thảo tại Thượng Hải và nhân đó đến thăm nhà văn Ba Kim đang nằm điều trị tại đây. Từng bước bước lên cầu thang, nhìn thấy phòng điều trị của Ba Kim, chúng tôi rất phấn khởi. Tuy không nhìn thấy Ba Kim, không được hỏi thăm sức khỏe của ông nhưng chúng tôi vô cùng mãn nguyện và tự hào là vượt qua hơn 4 ngàn cây số để được thăm một trong những nhà văn lớn nhất của Trung Quốc và thế giới trong thế kỷ 20. Còn Ba Kim ông cũng không biết ở bên ngoài cánh cửa phòng có một độc giả người Việt yêu mến ông mà tìm đến bệnh viện để được biết tình hình sức khỏe và được ngắm nhìn ông những giờ phút cuối đời...

Mỗi nhà văn đều có một quê hương để mình gắn bó. Đến Bắc Kinh, chúng tôi nhớ đến Lão Xá. Đến Thượng Hải, chúng tôi không sao quên được Mao Thuẫn và Ba Kim. Một người văn chương tài giỏi như Ba Kim mà suốt đời gian nan, lận đận. "Cách mạng văn hóa" ông bị hành hạ. Bước vào thời kỳ mới, tuy tuổi già, sức yếu nhưng trái tim ông vẫn luôn hướng về đất nước và văn học. Đến thăm Bắc Kinh, chúng tôi có dịp lại đến thăm "Thư Viện Văn học hiện đại Trung Quốc" do ông đề xướng đã được xây dựng. Mặc dù ở Việt nhưng chúng tôi vẫn luôn theo dõi về tình hình sức khỏe của Ba Kim - nhà văn những năm đầu thế kỷ 20 cuối cùng vẫn còn trường thọ ở tuổi 100 (năm 2004).       
H.S.H

(nguồn: TCSH số 191 - 01 - 2005)

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • THANH THẢO“gió đưa gió đẩy về rẫy ăn còngvề sông ăn cá về đồng ăn cua”

  • NGUYỄN KHẮC PHÊCó lẽ trong các loại tổ chức hội đoàn, tổ chức các Chi hội nhà văn (thuộc Hội Nhà văn Việt Nam) là ít họp hành nhất; trong đó Chi hội ở Thừa Thiên Huế hẳn được xếp “đầu bảng” về “thành tích” này.

  • NGUYỄN ĐÌNH CHÍNHĐêm hè từ 7 giờ tối tới 7 giờ sáng. 12 giờ liên tục nhận những cái rùng mình trong toa máy lạnh ghế mềm chuyến tầu xuyên Việt. 9 giờ sáng xuống Huế. Cơn mưa rớt bão Chanchu đã tạnh. Nắng Huế nhức đầu. Khách sạn Duy Tân. Nằm đọc Tạp chí sông Hương.

  • Gắn liền với 700 năm Thuận Hoá - Phú Xuân, 700 năm thơ Huế là tập thơ do Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật tỉnh, Hội Nhà văn TT-Huế phối hợp thực hiện và sẽ ra mắt bạn đọc trong thời gian đến. Đây sẽ là tập thơ có bề dày và cũng là tập thơ đầu tiên khái quát một chiều dài với một diễn trình lịch sử thơ ca của vùng đất TT-Huế.

  • ĐÀO ĐỨC TUẤNNhà thơ Lê Văn Ngăn sinh năm 1944 ở làng Niêm Phò, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, Thừa Thiên Huế; hiện sống tại TP Quy Nhơn, Bình Định. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, nguyên Phó Chủ tịch Hội VHNT Bình Định. Thơ in trong nhiều tuyển tập trong và ngoài nước nhưng chỉ có một tập riêng “Viết dưới bóng quê nhà” (NXB Hội Nhà văn - 2008).

  • NGỰ VIÊNLTS: Văn học trẻ Huế hiện nay như thế nào? Các tác giả trẻ đang ở đâu? Tại sao đã nhiều năm nay, không có một hội viên mới nào của Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế ở độ tuổi thậm chí U40? Đâu rồi, một sân chơi văn học vốn là niềm tự hào một thời của những cây bút trẻ Huế?... Một thực tế đầy bức xúc đã khiến những người có trách nhiệm không thể tiếp tục ngồi yên. Cuộc tọa đàm “Văn học trẻ Huế- nhìn lại và phát triển” do Tạp chí Sông Hương và Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế phối hợp tổ chức vào sáng chủ nhật 12/10 vừa qua, nói như nhà văn Tô Nhuận Vỹ, “lẽ ra phải được tổ chức từ lâu”…

  • BỬU NAM* Để tưởng nhớ Trịnh Công Sơn và Ngô Kha1. Buổi chiều nắng vàng rực trên tàn cây xanh. Hình như có một con chim nhỏ nào đó đang líu lo trong lùm cây trên cao.

  • NGUYỄN THỤY KHA1. BÁC CẢ KHOÁTNhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát sinh năm Canh Tuất 1910 - năm Tuất đầu tiên của thế kỷ XX. Bởi vậy, bác mang bản mệnh Dương Thoa Xuyên Kim (vàng trang sức).

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂN thực hiệnNhạc sĩ Phạm Duy sinh trưởng ở Hà Nội (5.10.1921), một thời gian dài sinh sống ở miền Nam và nước ngoài, tác phẩm của ông gắn bó với nhiều địa phương trong cả nước. Do hoàn cảnh lịch sử, ông đã có những quan hệ đặc biệt với Huế, với vùng núi Ngự sông Hương.

  • NGÔ MINHTrên hành trình văn chương thăm thẳm, mỗi nhà văn đều có một lối khởi hành riêng. Đối với nhà văn trẻ Văn Cầm Hải, con đường đó bắt đầu từ sự lựa chọn đầy nghị lực: Anh không ăn bóng một thời đã đi qua. Câu thơ Hải viết về Apolinaire như một tuyên ngôn của mình! Quen thân Văn Cầm Hải hơn 10 năm nay, tôi thấy chàng trai trẻ này là một mẫu thanh niên hiện đại trong suy nghĩ và sáng tạo nghệ thuật, ham học hỏi, có chí tiến thủ, không bao giờ bỏ phí thời gian vào những say mê vô bổ.

  • LGT: Nhà văn, nhà báo Nguyễn Xuân Hoàng sinh ngày 30-8-1966, đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam, nguyên Phó Trưởng phòng chương trình Đài PTTH TT.Huế, ủy viên thường vụ Hội Liên hiệp VHNT TT.Huế, ủy viên thường trực Hội Nhà văn TT.Huế, Trưởng ban Biên tập TCSH, Thư ký Chi hội Nhà báo TCSH đã đột ngột qua đời ngày 16 -12-2006 tại Huế. Thương tiếc anh và thể theo nguyện vọng của bạn hữu, đồng nghiệp, Sông Hương xin dành số trang đáng kể đăng điếu văn của Hội Liên hiệp VHNT cùng các bài viết viếng, tiễn đưa anh về nơi an nghỉ cuối cùng.Nguyễn Khắc Thạch - Lê Văn Phương - Lê Huỳnh Lâm - Trần Tuấn - Nguyễn Trương Khánh Thi - Hồ Thế Hà - Trần Hạ Tháp - Đào Đức Tuấn - Tỷ Em - Ngô Minh - Lãng Hiển Xuân - Phạm Thị Anh Nga - Hồ Đắc Thiếu Anh - Nguyên Quân - Đinh Thu - Nhất Lâm - Ngô Cang - Ngàn Thương - Lê Ngã Lễ

  • NGÔ MINHDịp sát Tết Đinh Hợi, thoáng thấy tôi trên đường Lê Lợi, anh Ngọc Tranh ra hiệu dừng xe rồi nhanh nhẹn mở tờ báo  Tuổi Trẻ ra, nheo nheo con mắt cười hồ hởi: “Mình làm Trò chơi mà được Trời cho, ông thấy ngon không?”. Thì ra, báo Tuổi Trẻ ra ngày 13-2-2007, tức ngày 26 Tết, đưa tin Liên hoan hài kịch Xuân 2007 của Thành phố Hồ Chí Minh vừa kết thúc tại sân khấu nhạc nước Đầm Sen, nhóm Hoàng Sơn được giải nhất với vở hài kịch ngắn Trời cho.

  • MAI VYNhạc sĩ Trần Hữu Pháp sinh ra và lớn lên trong một gia đình nho giáo nghèo tại huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định. Từ năm 1946, Trần Hữu Pháp thoát ly gia đình phục vụ cách mạng. Trong sáu mươi năm, anh đã gắn bó với nhiều vùng đất của Tổ quốc.

  • TRẦN ĐƯƠNGCuối năm 1973, đầu năm 1974, khi bắt đầu tiến hành tuyển chọn và dịch thơ của Tố Hữu ra tiếng Đức, tôi có gửi tới nhà thơ danh mục những bài cần dịch và xin ông cho ý kiến.

  • Sức sống của Hoàng Phủ Ngọc Tường sau cơn bạo bệnh là một niềm vui cho làng văn học Việt . Trong những ngày tháng điều trị, những trang viết của ông không vì thế “đóng cửa” mà nhiều khi lại thăng hoa vì đây là khoảng thời gian đúc kết của một chuỗi dài “ham chơi”, một thời đã từng lên rừng xuống bể, vào Nam ra Bắc với biết bao “Miền gái đẹp”... Không bao giờ dừng bước -  Đó cũng là cốt cách của nhà văn gốc Bích Khê, Quảng Trị này.

  • NGÔ MINHLTS: Giáo sư Lê Quang Vịnh, người trí thức Sài Gòn yêu nước bị toà án binh đặc biệt của Chính quyền Sài Gòn kết án tử hình năm 1962 và đày ra Côn Đảo biệt giam trong chuồng cọp, hầm đá, bị khổ sai suốt 14 năm ròng, từ năm 1962 - 1975. Cuộc đời và nhân cách, ý chí kiên cường của người tử tù nổi tiếng này là một pho truyện lạ lùng và hấp dẫn. Nhà thơ Ngô Minh vừa hoàn thành bản thảo tập ký sự “Chuyện tử tù Lê Quang Vịnh”. Chúng tôi xin giới thiệu với bạn đọc chương nói về những mối tình nước mắt của Lê Quang Vịnh trong thời gian hoạt động cách mạng ở Sài Gòn, trước khi bị án tử hình.

  • HOÀNG VŨ THUẬT

  • Sinh ngày 02 tháng 8 năm 1962 tại Cao Lãnh, Đồng ThápTốt nghiệp Trường Viết văn Nguyễn Du (khoá III).Hiện công tác ở Báo Tuổi Trẻ, thành phố Hồ Chí MinhHội viên Hội Nhà văn Việt NamBài “copy” sau đây là cuộc trò chuyện giữa nhà thơ Thu Nguyệt và nhà báo Diễm Chi, đăng trên báo Phụ nữ chủ nhật thành phố Hồ Chí Minh.http://thunguyetvn.com

  • NGUYỄN QUANG SÁNG“Cách đây ba năm tôi có viết về nhà văn Sơn , chớ không phải khi nghe tin anh đi xa rồi, tôi mới nghĩ đến anh. Tôi viết về anh lúc anh còn khoẻ mạnh và minh mẫn. Anh đã đọc, gật đầu, cười…”.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNLTS: Cuộc tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là một cuộc tập kích chiến lược. Thắng lợi của cuộc tập kích ấy buộc Đế quốc Mỹ giữa lúc có đông quân nhất ở Việt Nam, hy vọng sẽ chiến thắng bằng quân sự phải xuống thang chiến tranh, ngồi vào bàn hoà đàm mở đầu cho thời kỳ thất bại của Mỹ dẫn đến chỗ Mỹ phải rút chạy khỏi miền Nam Việt Nam.