LTS: Bài viết dưới đây, do tác giả Đỗ Long Vân viết bằng tiếng Pháp nhân Triển lãm tranh Đinh Cường tại Trung tâm Văn hóa Đức, Sài Gòn, 1967. Sông Hương xin giới thiệu bản dịch của dịch giả Bửu Ý. Đầu đề do Tòa soạn đặt.
Tác phẩm “Đô thị vàng”
ĐỖ LONG VÂN
Thời trước, đối với kẻ nào muốn diễn tả lòng mình trung thực mà cởi bỏ gông cùm những lề luật cũ, thật là cả một vấn đề. Ngày nay còn những lề luật nào phải cởi bỏ nữa? Tất cả đã hóa ra dễ dàng thái quá giữa cái thời buổi tàn khốc này, thời buổi mà lễ độ bắt con người tru theo loài lang sói, lời thô lỗ là phương tiện để đi tới, cơn điên có vẻ cao giá. Tranh Đinh Cường, giữa cái bát nháo hư phù ấy, hầu như khiến người kinh ngạc vì vẻ e dè của anh.
Không rực rỡ. Không lạc điệu. Một chất màu ủ và quánh, mà vẫn nhẹ nhàng, và reo ca như vàng kim. Một thứ dạ kim với bao nhiêu hào quang quay trở vào bên trong. Điều này thoạt tiên bắt chán, cuối cùng ta lại đem lòng yêu mến cái e ấp tri quyết ấy, nó có vẻ như không táo gan, nhưng không phải vì thế mà không khổ công chinh phục. Phương chi chỉ cần nhìn Cường làm việc và ta thấy cái đẹp đơn sơ và bóng láng quyến rũ chầm chậm ở tranh anh, không bao giờ Cường đạt được liền ngay lúc đầu, mà nó là kết thúc của nhiều dò dẫm dài hơi, nơi kết liên của ngẫu nhiên và một tiền định nào đó không hiểu. Tranh của anh luôn khởi đi từ trong ánh rực rỡ. Bắt đầu như một vỡ òa của hoa, và hầu như luôn luôn, trở thành đại dương đêm xanh đen, không phải cái đêm cổ tích đẫm máu ám ảnh ký ức bằng kỷ niệm, nhưng là tuổi trẻ của trần gian với hết thảy kho tàng vùi chôn choàng dậy hầu soi tỏ bằng ánh sáng mong manh cái đêm đầu tiên ấy, cũng có thể gọi luôn là buổi lê minh. Vì chưng, đã đến với ta kia, từ cùng thẳm địa cầu, từng đợt sóng, không gian hé mở trong một vỗ cánh ánh thép, những mảnh thủy tinh nhấp nháy, trong khi bên trên vực thẳm, bao thành phố rắp tâm phiêu dạt theo nhau…
Thiên hạ tha hồ phàn nàn tranh Cường không phải là phản ảnh của thời đại. Quả có thế, anh thích thú hiến thân cho trừu tượng. Song, trừu tượng ngày nay là gì, nếu chẳng phải là sự vắng bóng một cõi đời đổ nát trong lòng mình, và để khỏi rơi vào mê sảng, mỗi cá nhân phải dụng tâm chế biến sự vắng bóng kia thành quyền hạn của nó? Trước đây không lâu, người ta đã từng khơi quái vật dậy. Bây giờ chúng ủ rũ trong viện bảo tàng và duy còn lại sự vắng bóng, tinh diệu và vô diện, tư bề đe dọa con người cùng là xô xát con người vào cùng tận tâm can. Ôi! Những thời diễm phúc độ nào trong đó con người vẫn còn có những cái gì để hủy phá! Nay con người buộc lòng dựng nghiệp bằng hoang tàn, bằng đêm, bằng sa mạc. Khổ cho nó là thế, nhưng không gian phơi mở vô tận trước mắt cũng là điều may mắn tối đại mà con người có thể ước mơ. Chúng ta hãy bằng lòng Cường đã bắt lấy dịp may. Bởi cái táo bạo mà cuộc phiêu lưu kia kêu đòi, nó muôn phần nghiêm trọng hơn nhiều thứ điên cuồng xưa cũ của ta. Tuy nhiên, người nghệ sĩ làm ra táo bạo mà chi. Nó giống mọi người nào khác, truy tầm mò mẫm một hòa hợp chính xác giữa những chất liệu khác nhau mà cõi đời đề ra cho nó, và giữa lòng thiên nan vạn nan nơi nó đi tới, đáng ca ngợi thay, Cường đã theo một con đường tắt, dựng nên vài bóng đàn bà. Nghệ thuật của anh lãng xao phong cảnh cùng tĩnh vật và vụt đi từ trừu tượng đến khuôn mặt người với một lối tả chân trang trọng mà anh chiếu rạng bằng thơ. Ở nơi anh, không có mối bận tâm dày vò đường nét, nhưng bên trên lớp xanh nhạt của biển trừu tượng, hốt nhiên gờn gợn nét vẽ tươi non của một hình người khỏa thân. Không đường nét nổi bật. Không bợn xác thịt. Chỉ một hình vẽ không thôi, mà như thế, trong ý tính của nó, nó truyền cảm bằng cái nhẹ nhàng của hư tưởng. Thế nhưng từ hư tưởng, nó cũng có cái hùng vĩ lâu đài và hình đàn bà thẳng người cao lớn kia, dù đang còn hồn nhiên uyển chuyển, đột hiện, trong vẻ trong suốt tinh sương, trên biển lặng, vừa mới tách ra từ không gian vây bọc, tựa hồ khuôn mặt phi nhân tính của hy vọng. Có thể gọi đó là buổi Chào Đời của Vệ Nữ. Mà ngẫm cho cùng, không phải thế sao? Người đàn bà đã chào đời, tôi muốn nói con người, và giờ đây nó cần xây đắp chỗ nương thân. Nhà nghệ sĩ diễn tả thời đại mình làm gì. Nó dựng nên thời đại.
Bửu Ý (chuyển ngữ)
(SDB10/09-13)
Đinh Cường đâu Huế đó - BỬU Ý. Vẻ trầm mặc của đất đá - HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG. Trong hội họa, Đinh Cường là thi sĩ của hoài niệm - TRỊNH CÔNG SƠN. Họa thi - BÙI GIÁNG. Khởi đi từ trong rực rỡ - ĐỖ LONG VÂN. Cái ở ngoài HỘI HỌA - THÁI BÁ VÂN. Đinh Cường, tấm lòng vô hạn - ĐẶNG TIẾN. Thế giới Đinh Cường - HOÀI KHANH. Vẻ ẩn mật trong hội họa Đinh Cường - HUỲNH HỮU ỦY. Một chút Đinh Cường - DOÃN QUỐC SỸ. Về bức tranh “Trăng qua vùng động đất” - ERICH WULFF. Cô Gái Huế với Tranh Thiếu Nữ của họa sĩ Đinh Cường - PHẠM THANH CHÂU. Họa sĩ Đinh Cường - Khu vườn lộng lẫy của những cung bậc ký ức - LÊ HUỲNH LÂM
BỬU Ý
Họa sĩ, suốt dọc đời mình, lần lượt trải qua những thời đoạn màu sắc. Như Picasso có giai đoạn hiện thực, tiếp đến là “thời xanh”, rồi “thời hồng”, sau đó có giai đoạn tượng trưng, chuyển dần đến siêu thực và lập thể.
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG
Những khuya trở về căn nhà trắng trong một hẻm đá ở xóm Bến Ngự, những ánh hỏa châu cũng bắt đầu tung lên trên vùng trời xa thành phố, “tâm hồn thấy sa sút thêm mỗi lần ở ngoài phố về”, Cường thường thú nhận với bạn bè, và Cường bắt đầu quần với khung vải trắng lớn trước mặt.
TRỊNH CÔNG SƠN
Đầu những năm 60, bóng dáng của Modigliani và của những bậc thầy các trường phái hội họa mới thấp thoáng đi về dưới những bức tường cổ rêu phong của Đại Nội. Ở đó có trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế và ở đó cũng có Đinh Cường.
BÙI GIÁNG
THÁI BÁ VÂN
Tôi muốn nghĩ tới một cái gì của tranh ngoài hội họa, của nhạc ngoài bài hát, của văn chương ngoài chữ.
ĐẶNG TIẾN
Những dòng dưới đây, nguyên văn lời giới thiệu bằng tiếng Pháp do tác giả viết tại Paris tháng 10/2010, nhân triển lãm tranh “Đinh Cường tấm lòng vô hạn”. Bài viết sau đó được tác giả tự phỏng dịch.
Từ 20/10 đến 30/10/1972, họa sĩ Đinh Cường có cuộc triển lãm tranh mang đậm dấu ấn ở Sài Gòn. Dưới đây là bài nhận định của Hoài Khanh về thế giới tranh của ông.
HUỲNH HỮU ỦY
Bước vào thập niên sáu mươi, hội họa Việt Nam bỗng dưng biến chuyển dữ dội, có tính đột phá với một lực lượng trẻ, mạnh khỏe, hừng hực lửa sáng tạo. Họ ào ạt vận dụng những tiếng nói mới, tất nhiên phải bắt liền mạch với nền nghệ thuật hiện đại của thế giới, rồi chính từ đó đã manh nha một nét gì đó riêng biệt của hội họa Việt Nam.
DOÃN QUỐC SỸ
Tôi có thói quen hễ ra khỏi thành phố gặp vòm trời trăng sao là tìm chòm sao Đại Hùng Tinh rồi tự đấy tìm ra ngôi sao Bắc Đẩu với ánh sáng trầm buồn như ánh mắt mẹ hiền đợi con. Từ sao Bắc Đẩu, tôi thường tìm sang chòm Thập Tự Nam như tìm một lối thoát. Tôi đặc biệt yêu chòm sao này - Thập Tự Nam - với vẻ sáng ngời đơn giản của nó.
ERICH WULFF (1926 - 2010) là bác sĩ người Đức. Ông thích tranh Đinh Cường, và bài viết trên đây được viết vào năm 1997, ghi lại những cảm xúc của ông về bức tranh TRĂNG QUA VÙNG ĐỘNG ĐẤT của Đinh Cường mà ông đã mua và lưu giữ trong bộ sưu tập tranh của ông.
LÊ HUỲNH LÂM
Đinh Cường là một trong những bậc thầy về sơn dầu của thế hệ trước còn lại. Ông sáng tác đều đặn non nửa thế kỷ này; để Trịnh Công Sơn, một người bạn yêu quý của ông phải thốt ra lời:
PHẠM THANH CHÂU
Trí nhớ, khoảng năm 1970, sau khi tốt nghiệp, tôi được bổ về Quảng Điền, Thừa Thiên - Huế, làm việc. Quảng Điền cách Huế vài chục cây số, có cái địa danh rất nhiều người biết là phá Tam Giang với hai câu thơ: “Thương em anh cũng muốn vô/ Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang”.