NGUYỄN ĐẮC XUÂN
LTS: Thời Pháp thuộc cũng như thời tạm chiếm, những “thượng khách” đến du lịch Huế thường được bà công chúa Lương Linh (con gái thứ 19 của vua Thành Thái và là em út của vua Duy Tân) hướng dẫn.
Công chúa Lương Linh - Ảnh: gactholoc.net
Chỉ lưu lại Huế một vài ngày hay thậm chí chỉ tranh thủ đi tham quan di tích lịch sử Huế trong một vài giờ, thế mà nhiều khách quốc tế không thể quên được những kỷ niệm sâu sắc ở Huế: Sụ “hấp dẫn” của Huế đối với họ một phần nhờ nghệ thuật hướng dẫn của bà Lương Linh. Đến nay nhiều người đã về hưu, nhưng vẫn còn liên lạc thư từ với bà để cám ơn “người hướng dẫn” đã giúp họ có được những “kỷ niệm Huế” đẹp đẽ. Chúng tôi quan niệm vai trò “người hướng dẫn du lịch” đối với các di tích lịch sử giống như người diễn đối với vở kịch. Người hướng dẫn giỏi cũng là một “nghệ sĩ”. Dưới đây là bài phỏng vấn bà Lương Linh do nhà văn Nguyễn Đắc Xuân thực hiện.
NĐX: Thưa bà, bà xuất thân trong một gia đình Hoàng tộc có cha và anh đều làm vua, sao bà lại chọn đi làm nghề hướng dẫn du lịch phục vụ cho khắp “bá tánh”?
Bà Lương Linh: Cha và anh tôi làm vua, nhưng đều là những ông vua “ăn lương” của Pháp, cũng không sung sướng gì. Khi hai Ngài nối tiếp nhau có hành động chống Pháp rồi bị đày, gia đình chúng tôi bị Pháp đưa lên an trí ở khu An lăng, lúc ấy tôi có khác gì một người dân đâu. Về làm dân thế thì tôi cũng phải có một cái nghề để sống chứ không thôi lấy gì mà ăn!
NĐX: Nhưng tại sao bà lại làm hướng dẫn du lịch mà không làm một nghề khác như dạy học, làm thầy thuốc, kinh doanh buôn bán?
Bà Lương Linh: Chuyện vì sao tôi làm hướng đẫn du lịch thì hơi dài dòng. Tôi xin kể vài nét sơ lược để anh rõ: Như anh đã biết cha và anh tôi có chủ trương chống Pháp, nhưng chủ trương phải học tiếng Pháp cho thật giỏi đề lấy văn minh, văn hóa Pháp mà giúp cho việc duy tân đất nước. Do đó mà anh chị em chúng tôi lúc ở trong Nội cũng như khi bị an trí ở An Lăng đều chăm chỉ học tiếng Pháp. Năm 1927 tôi vào Đà Nẵng thi và đậu Brevet Élémentaire (1). Nghe tôi nói tiếng Pháp hay, Toà Khâm bổ tôi làm điện thoại viên (dame téléphoniste). Làm cái nghề nầy rất phiền, cha chài chú chóp đâu ở bên kia đầu dây không biết, hễ nhấc ống nghe lên nghe mình trả lời không kịp là la ó phẫn nộ bỏ máy xuống ngay. Vì thế khi toàn quyền Va-ren vào Huế biết tôi là một bà chúa em ông vua yêu nước Duy Tân mà phải làm cái nghề ai mắng mỏ mình cũng được như thế là hạ thấp cái giá trị của một bà chúa quá thể, Va-ren bèn can thiệp chuyển đổi tôi về làm Dame bibliothécaire(2) bên cạnh ông N.Đ.N. Ở đây tôi có điều kiện đọc những sách sử viết về Huế. Những kiến thức mới thu nhận được đã giúp cho tôi hiểu về những sự tích cung điện lăng tẩm đài các của ông cha mà tôi đã được gần gũi lúc thiếu thời. Mỗi lần có “quốc khách” hoặc các sứ thần đến Huế, Toà Khâm hay nhờ tôi đi hướng dẫn. Họ khoe với khách là đã “sử dụng” được một người em của ông vua đã từng khởi nghĩa chống Pháp. Tôi biết mình bị lợi dụng nhưng vì miếng cơm manh áo làm sao từ chối được. Tôi được “tín nhiệm” sau vài lần đi hướng dẫn rồi tui đó họ chuyển tôi qua Phòng du lịch (cũng đặt ngay trong khu vực tòa Khâm). Cuộc đời làm hướng dẫn viên du lịch của tôi bắt đầu từ đó!
NĐX: Xin bà cho biết “cuộc đời” làm hướng dẫn viên du lịch” của bà được bao nhiêu năm?
Bà Lương Linh: Từ sau ngày tôi ra trường một vài năm (khoảng 1928) mãi cho đến ngày giải phóng 1975. Nhưng không phải trong vòng gần nửa thế kỷ tôi ở mãi một nơi mà trải qua nhiều giai đoạn: lúc đầu làm cho Pháp sau làm cho Chính phủ Nam Triều (thời Bảo Đại) và cuối cùng làm cho Phòng du lịch Huế.
NĐX: Chính phủ Nam Triều có cơ quan du lịch sao thưa bà?
Bà Lương Linh: Nam Triều không có cơ quan du lịch nhưng có Uỷ ban Lăng Điện. Như có lần tôi đã kể với anh, ông Bảo Đại có Phạm Bích (con ông Phạm Quỳnh) làm thư ký, bà Nam Phương có Nguyễn Tiến Lãng làm bí thư và bà Từ Cung (thân mẫu của Bảo Đại) nhờ tôi giúp cho bà việc đối ngoại. Công việc “đối ngoại” này thường là nói chuyện về danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, những câu chuyện về nhà Nguyễn, mỗi lần có “quốc khách” đến thăm mẹ vua. Việc đó còn nặng hơn cả việc hướng dẫn du lịch, đứng trước các “quốc khách” người hướng dẫn du lịch có sứ mệnh như một nhà ngoại giao văn hoá. Khách kính trọng hay xem thường lịch sử văn minh văn hóa của nước mình chính là vào lúc nầy đây. Ngày nay không rõ các anh các chị làm hướng dẫn du lịch có thấy như thế không?)!
NĐX: Thưa bà, bà cho biết những đặc điểm của những người khách mà bà đã hướng dẫn?
Bà Lương Linh: Những sứ thần, các vị nguyên thủ quốc gia (thường có cả vợ con đi theo) Âu, Á, Phi đều có.
NĐX: Thưa bà, bà đã hướng dẫn nhiều, xin bà cho biết khách quốc tế họ thích Huế về những điểm gì?
Bà Lương Linh: Cũng như ngày nay, khách quốc tế họ thích đến Huế để thưởng ngoạn một thành phố cổ còn giữ được cái quốc hồn quốc túy của một nước mà họ chưa biết hay biết mà chưa biết kỹ. Đặt biệt cái thành phố cổ nầy lại đặt trên đôi bờ sông Hương mơ mộng êm đềm hiếm thấy trên thế giới. Ngày nay các di tích đã bị chiến tranh và con người phá phách làm hư hại nhiều mà người ta còn thích đến như thế huống hồ ngày xưa trong Nội còn có ông vua, mọi kỷ cương trật tự xã hội ở những nơi thuộc về vua còn nguyên vẹn sạch sẽ tươm tất thì Huế đã hấp dẫn biết đến chừng nào. Nhưng tất cả những di tích, thắng cảnh đều là những vật vô tri vô giác. Muốn cho viên gạch biết nói cần phải nhờ đến tài nghệ của người hướng dẫn du lịch!
NĐX: Theo bà thì một người hướng dẫn du lịch cần phải chú ý đến những điểm gì?
Bà Lương Linh: Mỗi người hướng dẫn du lịch giỏi đều có một hoàn cảnh, một nghệ thuật riêng người nầy khó bắt chước người kia. Nhưng nói chung muốn thành công tôi thường lưu ý:
- Phải có một trình độ văn hóa nghệ thuật lịch sử cao về vùng mình hướng dẫn. Trình độ đó không phải chỉ lồng trong nội dung lời thuyết minh mà phải thể hiện trên áo quần, nét mặt, cử chỉ, lời ăn tiếng nói;
- Phải giữ cái gốc của nền văn hóa dân tộc, người khách rất bực mình khi thấy mình bắt chước họ hoặc lai căng một nước khác. Họ đến Huế để nghe, thấy, thưởng thức những gì của Huế chứ không phải của vùng khác (mặc dù vùng khác đó có trình độ cao hơn, ví dụ khách nghe rất chối tai tiếng nói pha Bắc hoặc pha Nam). Nói là giữ cái gốc Huế nhưng phải ở trình độ cao nhất chứ không phải thô thiển, mộc mạc đến quê mùa cái “nhà” nói là cái “già”;
- Mình muốn khách tôn trọng, quý chuộng cha ông mình thì trước hết mình phải tỏ cho khách thấy mình rất tôn trọng, quý chuộng cha ông của mình. Tôi thấy có lần một người khách ngoại quốc đã nhắc người hướng dẫn du lịch của mình hãy lấy cái nón lá trên đầu xuống và cúi đầu trước cái áng thờ vua trong Thế Miếu.
- Phải linh hoạt trong việc hướng dẫn. Tuỳ trình độ, nghề nghiệp, sở thích của khách mà thuyết minh. Ngoài việc giới thiệu di tích nếu có thể kể thêm vài mẫu chuyện lịch sử có liên quan đến di tích để khách nhớ được lâu, như “Chuyện cũ cố đô” của anh vậy;
-Nhưng trong bất cứ hoàn cảnh nào người hướng dẫn du lịch cũng phải tôn trọng sự thật. Nếu không nói được sự thật thì thôi, tuyệt đối không được bịa một cách tùy tiện. Chuyện bịa là không thực nên nó có thể không ăn khớp với lịch sử và biết đâu nó sẽ mâu thuẫn với ngay những điều mình đang nói. Người nghe biết mình bịa họ sẽ nghi ngờ đến những gì rất thực mình đã và sẽ trình bày. Hướng dẫn như thế sẽ thất bại, có hại cho dân tộc mình.
NĐX: Làm hướng dẫn du lịch gần nửa thế kỷ xin bà kể cho nghe những vui buồn trong nghề nầy?
Bà Lương Linh: Làm nghề gì cũng phải thấy thích thú, vui thì mới say sưa đeo đuổi được. Nhưng ở đời có niềm vui nào mà không ướt nước mắt đâu. Riêng về nghề hướng dẫn du lịch tôi thấy vui nhiều hơn buồn. Tôi vui là được giới thiệu cai văn minh văn hóa của ông cha mình với người ta, vui được học tập để mở rộng sự hiểu biết nâng cao trình độ hướng dẫn, vui là được sống trong môi trường có trình độ văn hóa cao nhất. Hơn nữa trong lúc mình tiếp xúc với người ngoài mình học thêm được không biết bao nhiêu chuyện hay, ý đẹp. Còn buồn thì...Có nhiều khi mình có chuyện buồn nhưng đi hướng dẫn du lịch thì cũng phải gượng vui, nỗi buồn bị chôn sâu trong lòng nó lại càng buồn hơn. Cũng có lúc buồn vì gặp phải những tay ngoại quốc nhiều tiền mà thiếu văn hóa mình nói với họ như nước chảy lá môn, mình hao hơi rát cả cổ mà chẳng để lại được một chút gì trong đầu óc họ cả.
NĐX: Sở dĩ bà được khách du lịch mến chuộng vì bà là con đức Thành Thái, lại có nhan sắc, có học vấn khó có người phụ nữ Việt Nam thời trước sánh được. Nhưng ngoài những yếu tố đó, còn có yêu tố nào đã giúp cho bà thành công nữa không?
BÀ Lương Linh: Du lịch là một ngành phục vụ văn hóa ở trình độ cao, mướn thu hút được người ngoại quốc ít nhất người hướng dẫn du lịch phải biết thông thạo một ngoại ngữ, thuyết minh mà qua người khác phiên dịch, chẳng khác nào ăn thức ăn chưa nêm mắm muối gia vị, mất cả “ngon lành”, mỗi nước có một cách tiếp đón (réception) hấp dẫn riêng, cách tiếp đón đó là kết tinh đạo đức, lễ độ của một nền văn hoá. Người hướng dẫn du lịch cần phải có một cử chỉ, thái độ rất Việt Nam. Lúc nhỏ tôi ở trong cung cấm có lẽ tôi đã được dạy dỗ để có một cái “gest” (cử chỉ) mà người ngoài ít có nên hấp dẫn khách du lịch chăng?
NĐX: Thưa bà, chỉ có thế thôi sao?
Bà Lương Linh: (cười) Anh ni hỏi chi mà cặn kẽ rứa? Tôi là con cháu nhà Nguyễn, lúc nhỏ lại ở trong Nội, lớn lên được gần các bậc tôn trưởng, tôi gắn bó với các nơi di tích củ nhà Nguyễn sâu sắc cho nên khi tôi thuyết minh về những di tích ấy rất hứng thú, có người nói là có “hồn”. Chính cái “hồn” đó đã chuyển sang được người nghe làm cho họ rung động với lịch sử văn hóa của mình.
NĐX: Thưa bà, để cho nền du lịch Huế có một bản sắc riêng có nên tuyển dụng con cháu các ông hoàng bà chúa còn sống ở Huế vô Nội, lên các lăng làm hướng dẫn du lịch không?
Bà Lương Linh: Nếu nhà nước làm như thế thì tốt. Bởi vì trong thời đại ngày nay, đối với người ngoại quốc “con cháu các ông hoàng bà chúa” cũng là một thứ “Bảo Tàng”. Người nghe được giới thiệu hướng dẫn viên là cháu mấy đời của ông vua nầy, bà chúa nọ họ thích hơn là người “bá tánh”. Nhưng dù sao đi nữa cũng phải lựa người có nhan sắc, có văn hoá, am hiểu về ông bà tổ tiên mình, bởi vì có khối con cháu ông hoàng bà chúa tệ lắm, nhiều người thiếu văn hoá và sự hiểu biết của họ về nhà Nguyễn còn kém hơn “bá tánh”.
NĐX: Thưa bà sắp đến có những đoàn “thượng khách” viếng thăm Huế, họ muốn được nghe bà thuyết minh, nghe bà kể chuyện bà Hoàng Thái Hậu cuối cùng ở Việt Nam, bà có vui lòng không?
Bà Lương Linh: Nếu lúc ấy tôi còn sức khoẻ tôi sẽ sẵn sàng... và không những thế nếu khách yêu cầu chính tay tôi và những bạn tôi sẽ nấu những món “Ngự thiện” mà vua chúa ngày xưa đã dùng để đãi khách.
NĐX: Cám ơn nhiệt tình của bà và cám ơn bà đã bỏ chút thì giờ quý báu để giúp tôi thực hiện buổi chuyện trò nầy.
Huế 18-6-1987
N.Đ.X
(SH32/08-88)
------------------------
(1) Cao đẳng Tiểu học
(2) Thủ thư
PHẠM THỊ ANH NGA
Giới văn học nghệ thuật trong Nam ngoài Bắc cũng như những người từng là học trò của ông thường nói với nhau, tưởng như đùa nhưng lại rất thật, rằng đến Huế mà chưa ghé thăm ông thì coi như là chưa đến Huế, gì thì gì vẫn cứ... thiếu.
LÊ HUỲNH LÂM
Văn chương như một món ăn tinh thần cho mọi người. Đối với những người đam mê, các tác phẩm văn chương như hơi thở, như máu thịt. Ngoài việc là món ăn tinh thần, văn chương như những con đường vươn ra dẫn dắt để nối kết, giao thoa giữa quốc gia này với quốc gia khác, giữa vùng miền văn hóa này với vùng miền văn hóa khác.
LÊ VĂN LÂN
Trong phong trào đô thị Huế, từ phong trào hòa bình 1954 - 1955, phong trào Phật giáo ở Huế những năm 1963 - 1964 đến phong trào li khai ở Huế 1966, có một nhân vật khi nhắc đến hầu như ai cũng biết - đó là bác sĩ Lê Khắc Quyến, nguyên Giám đốc Bệnh viện Trung ương Huế, nguyên Khoa trưởng Đại học Y khoa Huế.
ĐỖ MINH ĐIỀN
Ngày 01/10/2012, một tin vui không chỉ dành riêng cho Huế khi bộ Cửu vị thần công là 1 trong 30 hiện vật/nhóm hiện vật đã được công nhận là Bảo vật Quốc gia Việt Nam.
NGUYỄN MINH VỸ
Hồi ký
Thú thật với các bạn Tạp chí Sông Hương và những ai cùng quê là trước Cách mạng Tháng 8-1945 tôi có phần nào "mặc cảm" vì cái gốc Thừa Thiên của mình.
LƯƠNG AN
Vào đầu nửa sau thế kỷ 19, tại Phú Xuân (tức Huế bây giờ), giữa lúc tiếng tăm hai anh em Miên Thẩm và Miên Trinh đang lừng lẫy, một sự kiện bỗng thu hút sự chú ý của giới thơ kinh thành: sự xuất hiện gần như đồng thời của Tam Khanh(1), ba nhà thơ nữ người hoàng tộc, trong đó, Thúc Khanh được ca ngợi nhiều hơn cả.
(SHO) Tiến sĩ Lê văn Hảo quê ở Huế, con trai ông Lê Văn Tập - một đại phú gia ở miền Trung, du học Pháp (1953), đỗ Tiến sĩ Đệ Tam cấp ngành Dân tộc học (1961) tại Đại học Sorbonne, làm việc tại Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia Pháp (Centre national de la recherche scientifique) một thời gian rồi về nước (1965) giảng dạy Dân tộc học và Văn minh Việt Nam tại các Đại học Văn khòa Huế, Đại học Văn khoa Sài Gòn.
Có một người phụ nữ xứ Huế sinh sống và giảng dạy tại CHLB Đức nhưng luôn dành tình trang trọng chiếc áo dài Việt Nam. Bà là TS triết học Thái Kim Lan, với bà, áo dài làm nên một phần bản sắc vẻ đẹp phụ nữ Việt Nam.
NGUYỄN HỒNG TRÂN
Như chúng ta đã biết qua sách sử, cựu Hoàng đế Bảo Đại có 2 người vợ được hôn thú chính thức. Đó là bà Nguyễn Hữu Thị Lan (tức Nam Phương Hoàng hậu) và bà người Pháp là Monique Marie Eugene Baudot.
LÊ VĂN LÂN
Những thập niên cuối thế kỷ XX, có một nhân vật lúc ẩn lúc hiện như rồng trong mây, như kình ngư giữa đại dương, có mặt ở các thời điểm lịch sử, có tác động đến phong trào giải phóng dân tộc ở Thừa Thiên Huế nói chung và phong trào đô thị Huế nói riêng.
PHAN THUẬN AN
"Hôm nay, Ngài trở về trong lòng đất mẹ thân yêu, trở về giữa tất cả đồng bào con Hồng cháu Lạc, trở về bên núi Ngự, sông Hương...
"Chúng ta thành kính cầu cho nhà vua đời đời yên nghỉ.
"Lòng yêu nước của nhà vua còn sáng mãi với sử xanh".
LÊ TIẾN DŨNG
Một ngày cuối thu tháng Mười năm 1965 tôi nghe qua Đài Tiếng nói Việt Nam một tin quan trọng: Hội Văn nghệ Giải phóng công bố Giải thưởng Văn học Nghệ thuật Nguyễn Đình Chiểu.
ĐOÀN XANH
Nhà thơ, nhà báo Thúc Tề bị Pháp thủ tiêu khi mới 30 tuổi. Gần 50 năm sau, bí mật được phát lộ, Nhà nước đã truy tặng ông danh hiệu Liệt sĩ với bằng Tổ quốc ghi công.
Ở tuổi 75, nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân vẫn miệt mài bên chiếc máy tính để làm việc mỗi ngày. Ông luôn mang theo bên người một chiếc máy ghi âm, loại dùng bằng băng cassette, ông có thói quen ghi lại bất cứ buổi làm việc nào với các phóng viên báo, đài... Đón tôi trong con hẻm nhỏ dẫn vào ngôi nhà ở một quận gần trung tâm Sài Gòn, ông đội chiếc mũ kiểu Huế và những tiếng “răng, ni, nớ” rất Huế của ông mang lại cho tôi sự gần gũi để bắt đầu buổi trò chuyện.
Nhà văn ÁNH HƯỜNG (thực hiện)
Ngày 9/6/2014, nhà báo Nguyễn Khoa Bội Lan đã vĩnh biệt chúng ta, hưởng thượng thượng thọ 105 tuổi
Tôi lặng lẽ đi tìm về nhà "O Thương trống” mà trong lòng có cảm giác như một đứa con đi xa lâu ngày trở về với mẹ để được nghe mẹ kể chuyện đời, chuyện nghề.
Có lẽ cho đến nay, ông Lê Văn Kinh là nghệ nhân làng nghề truyền thống lập nhiều kỷ lục nhất VN. Ông đã lập kỷ lục về bộ tranh thêu bài thơ "Cáo tật thị chúng” của Mãn Giác Thiền sư bằng 14 thứ tiếng. Tiếp đó là bộ Tâm kinh Bát Nhã Ba La Mật. Đầu tháng 5-2014 vừa qua, ông tiếp tục xác lập kỷ lục thứ ba, đó là thêu tay hai bài thơ "Tẩu lộ” và "Hoàng hôn” - hai bài thơ trong tập "Nhật ký trong tù” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
VÕ SƠN TRUNG
Con người đó, là nhà văn, nhà văn hóa, nhà từ điển học Đào Đăng Vỹ cực kỳ nổi tiếng ở Huế từ những năm 1940. Ông sinh ngày 1 tháng 2 năm 1908 tại Huế, có tài liệu nói ông mất ngày 7/4/1987 tại California - Mỹ(1).
Cật tre được lựa từ rừng già, xung quanh lồng được chạm trổ tuồng tích như một bức tranh hoàn hảo… Những chiếc lồng chim như một tác phẩm nghệ thuật ấy có giá cả chục triệu đồng.
Nếu còn sống, ngày 28 tháng 2 năm nay, cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn sẽ tròn 75 tuổi. Nhưng ông đã nằm xuống 13 năm rồi, vào một ngày đầu hạ, cái ngày mà cả thế giới có quyền được nói dối và chắc hẳn nhiều người yêu thương ông cũng từng mong đó chỉ là một lời nói đùa…