ERIK SATIE: Một đời lập dị

15:35 20/03/2017

Erik Satie (1866-1925) được các nhà nghiên cứu lịch sử âm nhạc ngợi ca vì đã có công mở đường tới chủ nghĩa tối giản trong âm nhạc cổ điển từ trước Chiến tranh thế giới lần thứ nhất.

Chân dung Erik Satie do Suzanne Valadon, mối tình duy nhất trong đời của ông, vẽ năm 1893.

Các sáng tác cho piano của ông, nổi tiếng nhất là tổ khúc Gymnopédies (1888) và tổ khúc Gnossiennes (1893), đóng vai trò lĩnh xướng cho các thử nghiệm của giới soạn nhạc trong suốt thế kỷ 20. Việc Satie yêu thích sự lặp lại trong giai điệu và thay đổi về hòa âm đã giúp hình thành nền tảng cho trường phái New York (bao gồm Cage, Feldman, Wolff...) và trường phái tối giản Bờ Tây (bao gồm Terry Riley, Steve Reich). Thậm chí có thể thấy các cấu trúc tác phẩm của ông như A-B-A-B-C-B trong mọi thể loại, từ nhạc jazz thời kỳ đầu đến nhạc pop đương đại. Dù âm nhạc của ông sống vượt thời gian, được yêu thích cho đến tận ngày nay nhưng rất ít người hâm mộ biết về những nét lập dị trong cá tính của ông và càng ít biết hơn đến một số tác phẩm đã khiến ông trở nên “khét tiếng” trong đội ngũ những người đương thời ở Paris hồi cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20.

1. Tác phẩm có motif lặp lại 840 lần

Đó là Vexations (Những phiền hà, 1893), tác phẩm chứa một tiết nhạc bè trầm duy nhất được đệm bằng những hợp âm ở quãng trên nó. Tác phẩm được cho rằng viết cho đàn phím nhưng bản tổng phổ không chỉ rõ là dành cho nhạc cụ nào. Phía trên khuông nhạc có lời chỉ dẫn như sau: “Để chơi motif [nhạc tố] này 840 lần liên tiếp, mỗi người cần chuẩn bị sẵn sàng, trong sự im lặng thẳm sâu nhất, bằng sự bất động trang trọng.”

Vexations chỉ được biểu diễn trọn vẹn một vài lần. Nổi tiếng nhất là buổi công diễn lần đầu ở New York năm 1963 dưới sự chỉ huy của John Cage.

2. Sáng lập tôn giáo của riêng mình

Những năm 1891-1892, Satie được mời sáng tác cho một giáo phái thần bí do Joséphin Péladan, bạn thân của ông, sáng lập. Sáng tác thời kỳ này của ông ảnh hưởng mạnh mẽ đến tác phẩm của Olivier Messiaen và các nhà soạn nhạc thần bí khác.
Sau khi mối quan hệ cá nhân với Péladan đổ vỡ, Satie tự sáng lập một giáo phái thần bí của riêng mình vào năm 1893 mà cho đến nay, ông vẫn là tín đồ duy nhất.

3. Duy một mối tình

Trong thời gian làm nghệ sĩ piano dự bị tại hộp đêm Le Chat Noir (Con mèo đen) năm 21 tuổi, Erik Satie đã gặp Suzanne Valadon1, cô gái sống trong căn hộ liền kề với căn hộ của ông. Ngay sau lần gặp vào một đêm tháng giêng năm 1893, Satie đã cầu hôn Valadon. Sáu tháng sau đó, họ đã vẽ chân dung nhau và cùng thả thuyền đồ chơi ở Vườn Luxembourg trong khi Satie ngày một dấn sâu hơn vào những thử nghiệm hậu âm điệu (post-tonality).

Suzanne Valadon đột ngột bỏ Satie trong lúc ông đang soạn Vexations. Satie nói rằng sau khi Valadon bỏ đi thì “chẳng còn gì ngoài nỗi cô đơn lạnh lẽo tràn ngập cái đầu trống rỗng”. Đây là mối tình sâu sắc lãng mạn duy nhất mà Satie từng có.

4. Bị bạn bè gọi là Ông Nghèo và luôn mang theo búa để tự vệ

Đến năm 1900, Debussy và Ravel đã rất nổi danh, kèm theo là thành công về tài chính. Trong khi đó, Satie vẫn là một kẻ ngoài cuộc nghèo khó, tiếp tục thể nghiệm ở các hộp đêm và nhà hát tiên phong.

Satie chuyển tới sống tại một khu công nghiệp tồi tàn ở ngoại ô Paris và phải cuốc bộ vài dặm đến các điểm biểu diễn. Người ta thường thấy ông vung vẩy chiếc búa trên đường về nhà, chiếc búa mà ông bảo là mang theo để tự vệ. Cho đến cuối đời, ngay cả khi đã nổi danh hơn, ông vẫn đi đi về về theo lối đó khi vào trung tâm thành phố.

5. 40 tuổi mới tốt nghiệp trường nhạc

Tháng 12/1881, khi mới theo học ở Nhạc viện Paris, Satie bị thầy hướng dẫn Émile Descombes gắn mác “sinh viên lười nhất nhạc viện”. Dù nổi tiếng có trực giác sáng tác nhưng Satie thiếu khả năng thị tấu và các kỹ thuật cần thiết để qua được các lớp đàn phím trung cấp.
Còn chính trong khoảng thời gian bị giảng viên thỉnh giảng Georges Mathias gọi là “vô dụng”, Satie đã sáng tác một vài trong số những tác phẩm được biết đến nhiều nhất của mình, gồm cả Les Gymnopédies mà tính phức tạp hàn lâm của nó được thay thế bằng sự giản dị và sự nhẫn nại kiểu thiền. Năm 1905, ở tuổi 39, Satie trở lại trường nhạc học tiếp về lý thuyết và kỹ thuật cùng với các sinh viên bằng nửa tuổi mình. Ông tốt nghiệp với kết quả xuất sắc nhất lớp vào năm sau đó.

6. Làm nghệ thuật liên ngành từ khi nó chưa được gọi tên

Năm 1917, Satie công diễn lần đầu tác phẩm Parade, một vở ballet tổng hòa trong đó cả nhạc sống, vũ điệu, thi ca, nghệ thuật thị giác, thiết kế sân khấu và thời trang. Nhiều người xem đây là tác phẩm đầu tiên được biểu diễn để vượt thoát khỏi những khuôn mẫu kiểu Wagner về trình diễn hòa nhạc.

Parade cũng nổi bật bởi đội ngũ chuyên nghiệp thực hiện nó - thi sĩ/nghệ sĩ Jean Cocteau viết lời và Pablo Picasso thiết kế sân khấu. Trong khi được nhiều người thuộc giới nghệ sĩ Pháp thời đó ca ngợi, buổi công diễn ra mắt vẫn kết thúc bằng một vụ náo loạn bên ngoài phòng hòa nhạc. Satie còn bị kiện ra tòa do dùng lời lẽ xúc phạm nhà phê bình Jean Poueigh, người đã nhận xét không hay về vở diễn, và phải vào khám tám ngày.

7. Chế độ ăn kỳ quái

Chẳng còn lời nào để nói về đề tài đã được chính Erik Satie nói đến trong Hồi ức của một kẻ mất trí nhớ (1912):

“Đồ ăn của tôi chỉ bao gồm những thực phẩm màu trắng: trứng, đường, xương sườn, mỡ động vật chết, thịt bê, muối, dừa, thịt gà nấu trong nước trắng, hoa quả mốc, cơm, củ cải, xúc xích ướp long não, bánh bao, pho mát (những loại màu trắng), salad trộn kem tươi và một số loại cá nhất định (bỏ da). Tôi đun rượu lên và uống lạnh sau khi pha với nước ép hoa vãn anh. Tôi ăn rất ngon miệng nhưng chưa bao giờ nói chuyện trong khi ăn vì sợ bị nghẹn.”

8. Chưa bao giờ tự coi mình là nhà soạn nhạc hay nhạc công

Không rõ lý do chính xác vì sao nhưng Satie thấy thuật ngữ “phonometrographer” (tạm dịch: nhà khảo âm, với nghĩa đo và chép lại âm thanh) phù hợp để chỉ nghề nghiệp của mình:

“Mọi người sẽ nói với bạn rằng tôi không phải là nhạc công. Đúng rồi. Ngay khi mới bắt đầu sự nghiệp, tôi đã xếp mình vào dạng phonometrographer. Công việc của tôi hoàn toàn mang tính khảo sát âm thanh. Hãy nghe các tác phẩm Fils des Etoiles, Trois Morceaux en Forme d’une Poire, En Habit de Cheval hoặc Sarabandes của tôi – rành rành là các ý tưởng âm nhạc không đóng bất cứ vai trò nào trong việc sáng tác chúng. Khoa học là yếu tố chủ yếu... Tôi nghĩ tôi có thể tuyên bố rằng âm vị học quan trọng hơn âm nhạc. Nó đa dạng hơn. Lợi ích về tài chính cũng lớn hơn, tôi hàm ơn nó vô cùng. Ở bất kỳ sự kiện nào, với một chiếc máy motodynaphone [dùng để đo và chép lại âm thanh], thậm chí một phonometrologist thiếu kinh nghiệm cũng có thể dễ dàng ghi được nhiều âm thanh hơn nhạc sĩ lành nghề nhất trong cùng một thời gian. Đây chính là cách để tôi có thể viết [nhạc] rất khỏe. Và vì thế tương lai nằm ở công nghệ khảo âm.” (Hồi ký của một kẻ mất trí nhớ, 1912)

Đó là những lời huyên thuyên của một nghệ sĩ say rượu hay một tiên đoán uyên thâm về tương lai của âm nhạc?

9. Sáng tạo ra “nhạc nền” trước khi nó được thừa nhận

Đặt ra khái niệm âm nhạc nội thất, Satie hàm ý một trải nghiệm hòa nhạc nơi khán giả cố ý phớt lờ những người biểu diễn. Âm nhạc “như giấy dán tường”, khán giả không chủ ý nghe trong khi nhóm biểu diễn ngồi rải rác khắp khán phòng.
Năm 1902, Satie và nhóm biểu diễn của ông ra mắt âm nhạc nội thất trong một phòng trưng bày nghệ thuật ở Paris. Trước đó, ông đã năn nỉ khán giả của mình lờ đi, coi như không có màn biểu diễn sắp tới. Bất chấp nỗ lực của ông, khán giả vẫn trật tự một cách lịch sự khi buổi biểu diễn bắt đầu.

Các khái niệm về nhạc ambient [thể loại nhạc có thể gợi nên cảm giác về “bầu không khí”, tạo ra nhiều cấp độ về chú ý khi nghe mà không cần bất cứ sự thúc ép nào], tác phẩm sắp đặt âm thanh và ngay cả muzak [một nhánh của nhạc nền, thường được chơi ở các cửa hàng bán lẻ] hay nhạc hành lang đều bắt rễ từ âm nhạc giấy dán tường của Satie. Chúng ta đã chứng kiến âm nhạc nội thất đi từ một buổi biểu diễn thể nghiệm đến một hiện tượng tất yếu dù chúng ta có thừa nhận nó hay không.

10. Cuộc sống thường ngày không bình thường

“Tôi dậy lúc 7:18; lấy cảm hứng từ 10:23 đến 11:47. Tôi ăn trưa lúc 12:11 và rời khỏi bàn ăn lúc 12:14. Một chuyến đi lành mạnh trên lưng ngựa vòng quanh lãnh địa của tôi từ 1:19 đến 2:53 chiều. Một đợt lấy cảm hứng khác từ 3:12 đến 04:07. Từ 4:27 đến 6:47 chiều làm các việc khác nhau (đấu kiếm, ngẫm nghĩ, bất động, thăm viếng, trầm tư, luyện tay, bơi lội, v.v)”

“Bữa tối được phục vụ lúc 07:16 và kết thúc lúc 07:20. Từ 8:09 đến 9:59 tối đọc giao hưởng (thành tiếng). Tôi thường đi ngủ lúc 10:37 đêm. Mỗi tuần một lần, tôi thức dậy với một cú giật mình lúc 03:19 (thứ Ba).”

“Tôi thở một cách chú tâm (mỗi lần một chút). Tôi rất hiếm khi khiêu vũ. Khi đi bộ, tôi ép chặt tay hai bên sườn và đều đặn nhìn lại phía sau.”

“Biểu cảm của tôi rất nghiêm túc; khi tôi cười to thì đó không phải là cố ý và tôi luôn xin lỗi một cách lịch sự nhất.”

“Tôi ngủ mà chỉ nhắm một mắt, rất sâu giấc. Giường của tôi hình tròn, với một cái lỗ để đưa đầu qua. Mỗi giờ một lần, người đầy tớ lấy nhiệt kế của tôi ra và cặp cho tôi một cái khác.”

“Bác sĩ của tôi luôn bảo tôi hút thuốc. Một phần lời khuyên của ông vẫn được lưu truyền: ‘Nhả khói đi, anh bạn; nếu anh không nhả thì người khác sẽ nhả’.”

11. Những chiếc ô

Khi Satie qua đời, bạn bè và gia đình ông mới bước vào căn hộ nơi không ai lui tới đã nhiều năm của ông và phát hiện có hơn 100 chiếc ô chồng chất hỗn loạn giữa những vật dụng khác.

Nguồn: Ngọc Anh - Tia Sáng

---------
Max Alper - Tác giả bài viết là nhạc công, nghệ sĩ âm thanh, người sáng lập start-up phi lợi nhuận Sonic Arts For All!, hiện sống ở New York.

1 Suzanne Valadon (1865-1938): người mẫu và họa sĩ người Pháp, là nữ họa sĩ đầu tiên được nhận vào Hội mỹ thuật Quốc gia Pháp.




 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)

  • Nhạc và lời: NGUYỄN VĂN VŨ

  • TÔN THẤT BÌNH

    Nếu dân ca là suối nguồn cảm hứng của nhân dân lao động trong cuộc sống thì hò là phương thế thể hiện tâm tình tràn đầy xúc cảm một cách trung thực nhất.

  • VĂN CAO
           Hồi ký

    Sau triển lãm Duy nhất 1944 (Salon Unique), tôi về ở một căn gác hẹp đầu phố Nguyễn Thượng Hiền.

  • TÂM HẰNG NGUYỄN ĐẮC XUÂN  

    Tin từ Làng Mai Pháp quốc cho biết: Đêm giao thừa Thầy nói về Phạm Duy cho khoảng 70 cháu sinh viên Việt Nam về thăm Làng. Bài giảng này cũng là một loại hommage(1) cho Phạm Duy. Có thể nghe lại trên mạng chỗ Pháp Thoại online của Thầy vào ngày 30 Tết vừa rồi.

  • Trưa ngày 27/01/2013, cây đại thụ của làng nhạc - Nhạc sĩ Phạm Duy – đã qua đời, hưởng thọ 93 tuổi. Nhạc sĩ Phạm Duy có số lượng tác phẩm âm nhạc đồ sộ, trong đó có nhiều tác phẩm nổi tiếng. Khi còn sống, nhạc sĩ Phạm Duy cũng thường xuyên cộng tác với Tạp chí Sông Hương. Chúng tôi xin đăng lại bài viết cuối cùng của nhạc sĩ đã gởi cho tòa soạn trước khi mất và đã được đăng trên Sông Hương số Tết Quý Tỵ 2013, như một nén hương tưởng nhớ người nhạc sĩ tài hoa.

  • “Đời là những cơn mưa vô thường/ Trói chân em bên đường/ Nước dâng cao chân tường/ Đường xa chân ướt phơi nắng dầm sương”...

  • NGUYỄN TẤN TÔN NỮ Ý NHI

    Trong ý niệm của nhiều người từ hạng trí thức cao cho đến bình dân, ngoại trừ dân nghiên cứu dân tộc nhạc học, hát xẩm là một thể loại âm nhạc có xuất thân thấp kém, luôn gắn liền với hình ảnh của người khiếm thị và cây đàn nhị từ góc phố, sân đình hay bãi chợ. Nhắc đến hát xẩm, đa phần người ta liên tưởng ngay đến những ca từ mộc mạc, dung dị và lắm khi dung tục.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂN 

    Đêm giới thiệu Trường ca Hàn Mặc Tử, tại Học viện Âm nhạc Huế thầy Trần Văn Khê và nhạc sĩ Phạm Duy đã đưa chúng ta đi từ cõi thực mộng mơ trải qua những đau đớn, vật lộn với cơn đau đến ngất lịm và cuối cùng nương tựa vào niềm tin tâm linh để hiện hữu.

  • TRƯƠNG ĐÌNH NGỘ

    Thượng thanh khí tiết ra nguồn tinh khí
    Xa xôi đời trăng mọc nước Huyền Vi
    Đây Miên Trường, đây Vĩnh Cữu tề phi
    Cao cao vượt hai hàng bóng vía


  • (Bản dịch của Trương Đình Ngộ)

  • NGUYỄN THỤY KHA

    Có thể nhận ra sự giao hòa giữa nhiều chiều cảm xúc trong quá trình thai nghén bài hát "Thiên Thai". Song có lẽ cái lớn nhất, cái bao trùm, cái gốc để tỏa ra sự tràn trề giai điệu của bài hát này chính là sự phản ảnh có thực của một dòng sông nào đó.

  • ĐẶNG TIẾN “Bộ môn” Thơ đang lùi bước trong xã hội hiện đại. Đời sống đô thị nhanh bước theo nhịp tiến hóa của công nghiệp, đẩy lùi biên độ của thơ: kỹ thuật hiện đại cung cấp cho quần chúng - nhất là thanh niên - những phương tiện giải trí và truyền thông hấp dẫn và nhanh chóng hơn những bài bản vần vè trước đây - dù sao cũng gắn liền với nếp sống nông thôn.

  • NGUYỄN HOÀN Nhân kỷ niệm 10 năm ngày nhạc sĩ Trịnh Công Sơn về cõi thiên thu 1/4 (2001-2011), Nhà xuất bản Trẻ xuất bản cuốn sách “Thư tình gửi một người” tập hợp hơn 300 trang thư tình của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn gửi Ngô Vũ Dao Ánh, người tình có ảnh hưởng mạnh mẽ và lâu bền trong cảm hứng sáng tạo âm nhạc của nhạc sĩ.

  • DƯƠNG BÍCH HÀDân tộc Tà Ôi, cũng như các dân tộc cư trú dọc Trường Sơn, âm nhạc là một bộ phận thiết yếu trong đời sống văn hóa của họ, nó không chỉ mang chức năng giải trí đơn thuần mà gắn liền với tín ngưỡng, với đời sống tâm linh, là phương tiện để tiếp xúc với thần linh.

  • NGUYỄN THỊ HỒNG SANHNgười ta gọi Trịnh Công Sơn là “sứ giả tình yêu”, “người tình của mọi thế hệ”, nhưng có lẽ chức danh “con người thi ca” mà nhạc sĩ Văn Cao yêu mến dành tặng cho ông là phù hợp hơn cả.

  • TrẦn thỊ AnCho đến nay, ca trù vẫn là một thể loại văn chương âm nhạc rất xa lạ với đông đảo đại chúng. Trong ấn tượng chung, ca trù là một sinh hoạt âm nhạc trước hết gắn với lễ lạt của các ông hoang bà chúa hay các miếu đền, sau nữa là thú ăn chơi ở dinh quan, thậm chí trở nên sa đọa và trụy lạc nơi ca quán.

  • NGUYỄN THỤY KHATừ sau "Đề cương văn hóa" của Đảng ra đời năm 1943 sáu chữ "Dân tộc - khoa học - đại chúng" đã trở thành tâm niệm của những chiến sĩ cách mạng làm công tác văn hóa. Song ngay cả khi Cách mạng tháng Tám thành công, rồi cả dân tộc bước vào cuộc trường kỳ kháng chiến thì cho đến trước chiến dịch Điện Biên, chữ "Dân tộc' trong "Đề cương văn hóa" vẫn chỉ được các nghệ sĩ khai thác ở những vốn cổ của người Kinh, trong đó có nghệ thuật âm nhạc.

  • NGUYỄN THỤY KHATrong hai đêm 2 và 3.06.2004 tại Nhà Hát Lớn, Hà Nội đã diễn ra chương trình hoà nhạc của Dàn Nhạc Giao Hưởng Việt Nam dưới sự chỉ huy của Giáo sư - Nhạc trưởng người Anh Colin Metters - Cố vấn âm nhạc và nhạc trưởng hợp tác chính của Dàn Nhạc Giao Hưởng Việt Nam trong dự án 5 năm nhằm củng cố và phát triển dàn nhạc lên ngang tầm quốc tế.

  • VĂN THAO... Tôi tập tễnh bước một leo lên cầu thang ngôi nhà số 108 phố Yết Kiêu vào một ngày giáp tết năm 1976. Đã sang tiết xuân, trời nắng nhẹ mà vẫn lạnh. Tiếng đàn dương cầm vọng ra. Một điệu vans. Giai điệu của bản nhạc mượt mà, lấp lánh như những hạt nắng xao động trên vòm cây. Một giai điệu mà tôi chưa nghe bao giờ.

  • MẶC HY    Hồi kýThế là tôi và Lê Lự, mấy đêm nay, lại được nằm chỏng khoèo trên mấy tấm ván nóc chuồng trâu nhà mẹ An tại Khe Giữa để đón một cái Tết thứ hai ở chiến khu Ba Lòng.