Đôi dòng kỷ niệm

15:06 26/01/2018

NGUYỄN TỰ LẬP  

Cuộc Tổng công kích - Tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân 1968 của quân và dân ta trên chiến trường miền Nam cách đây tròn nửa thế kỷ (1968 - 2018).

Đồng chí Nguyễn Tự Lập (hàng đầu thứ 2 từ phải sang) cùng đồng đội xuân 1968 bên hố pháo của địch

Chiến công oanh liệt mang ý nghĩa chiến lược ấy thực sự là mốc son chói ngời, tạo nên bước ngoặt lớn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước lâu dài, gian khổ nhưng thắng lợi hết sức vẻ vang của dân tộc Việt Nam. Tuy chỉ được tham gia vào giai đoạn mà cuộc Tổng tiến công nổi dậy đã nổ ra, nhưng những ngày tháng cùng đơn vị chiến đấu, đánh trả lực lượng phản kích của địch trên chiến trường phía tây Cố đô Huế đầy gian nan thử thách, đã để lại trong tôi cũng như đồng đội bao ký ức sâu lắng, khó phai mờ.

Nhập ngũ cuối tháng 7 năm 1967, vào đúng thời điểm Đảng và Nhà nước tiến hành tổng động viên lực lượng cho chiến trường. Bởi vậy, chúng tôi lên đường phần lớn là những học sinh tuổi mười tám, đôi mươi “tràn đầy khát vọng, phơi phới niềm tin”, nhiều người đã và đang có giấy gọi đại học trong nước và nước ngoài. Cùng đi Nam chiến đấu với chúng tôi còn có các bậc cha chú ngót nghét tuổi 40, đã có 4 đến 5 con, cá biệt có những người là con trai độc nhất trong gia đình. Sau gần 3 tháng học tập chính trị, huấn luyện quân sự ở Gia Lương, Lục Nam (Hà Bắc trước đây) với tinh thần hết sức khẩn trương, đơn vị chúng tôi (d405/ e568/f330) được lệnh hành quân gấp vào Nam bổ sung cho các đơn vị, chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công nổi dậy Tết Mậu Thân 1968. Nhưng do phải hành quân bộ, mang vác nặng từ Hà Bắc vào Quảng Bình, sang đất bạn Lào, lại phải trải qua những thời điểm địch đánh phá ác liệt khắp các chặng đường, gây thương vong… nên khi chúng tôi vào đến chiến trường1 thì các đơn vị chiếm giữ thành phố Huế sau 25 ngày đêm đã và đang được lệnh rút lui về khu vực rừng núi ở phía tây, vì vấp phải sự tập trung lực lượng phản kích lớn, hết sức điên cuồng, quyết liệt của địch.

Tiểu đoàn chúng tôi được bổ sung về Đoàn 8 Sông Lô (sau này là Trung đoàn 3, Sư đoàn 324) ngay trong đêm khi vừa hành quân đến. Do các hướng đang liên tục phải chống trả với lực lượng tiến công của địch nên vừa về đơn vị, ai nấy đều nhanh chóng bắt tay ngay vào việc xây dựng, củng cố công sự trận địa, chuẩn bị mọi mặt, sẵn sàng đánh địch ngay từ mờ sáng hôm sau. Từ thực tế đó, nhiều cán bộ đại đội, trung đội và ngay cả tiểu đội chưa biết mặt, biết tên chiến sĩ mới của mình thì họ đã hy sinh2, bị thương… phải chuyển về tuyến sau.
 

Quân ta tiến đánh chiếm Thành Nội - Huế Xuân Mậu Thân 1968 - (Ảnh tư liệu)

Nhằm đẩy đối phương ra xa khu vực thành phố Huế cũng như phá thế chuẩn bị của ta cho những đợt tiến công tiếp theo địch đưa Sư đoàn kỵ binh bay số 1 Mỹ “tia chớp nhiệt đới” với 500 máy bay trực thăng các loại, sau này tăng cường thêm sư đoàn dù 101 kết hợp với nhiều tiểu đoàn, trung đoàn, lữ đoàn chủ lực bộ binh, thủy quân lục chiến ngụy quân Sài Gòn tập trung phản kích rộng khắp. Máy bay trực thăng như những bầy chuồn chuồn quần lượn rà sát ngọn cây nhằm quan sát, phát hiện, kết hợp với đổ quân, đánh chặn lực lượng ta khắp nơi suốt từ các khu vực Hòn Gió, Bình Điền, Tà Lương, Ba Lẻ, Động Tranh, đến các điểm cao 286, 360, 935… Ngoài sử dụng máy bay B-52 “rải thảm”, máy bay B-57 ném bom “tọa độ” kết hợp với “pháo hạm” từ biển, pháo cối lớn nhỏ gần xa cứ suốt ngày đêm gầm rú, thét gào. Chúng còn sử dụng cả chất độc hóa học các loại, trong đó có cả chất diệt cỏ dioxin (da cam) nhằm làm rụng lá, quang rừng, phát hiện, tiêu hao tiêu diệt, đẩy lực lượng ta phải lùi xa về hướng biên giới Việt - Lào.

Đây là giai đoạn khó khăn nhất của đơn vị, có những lúc bộ đội đói cơm, lạt muối, thuốc cứu chữa thương bệnh binh thiếu do địch tăng cường ngăn chặn đánh phá các tuyến vận tải hậu cần của ta. Song, phát huy truyền thống kiên cường giữ vững Thành Huế trong 26 ngày đêm, Đoàn 8 Sông Lô chúng tôi đã đoàn kết đồng lòng, tìm mọi biện pháp khắc phục, vượt qua. Một mặt hiệp đồng chặt chẽ với các đơn vị bạn đứng chân trên địa bàn như Đoàn 9, Đoàn 6; mặt khác cùng LLVTvà nhân dân Thừa Thiên - Huế và Quân khu Trị Thiên khai thác hậu cần tại chỗ, bám trụ ngày đêm, vận dụng nhiều loại hình, phương thức tác chiến linh hoạt, cơ động, tiêu hao tiêu diệt lớn lực lượng, phá hủy nhiều phương tiện, bắn rơi nhiều máy bay các loại của địch, gây cho chúng những tổn thất nặng nề trên toàn mặt trận. Những trận chiến đấu kiên cường giữ chốt, vận động tiến công kết hợp chốt ở khu vực Mái Nhà, Động Tranh, điểm cao 372… cùng với những cuộc bao vây, tập kích, phục kích lực lượng biệt kích thám báo, đánh xe tăng, xe bọc thép, xe cơ giới của Mỹ trên Đường 12, đường 14… ngày càng đem lại hiệu suất chiến đấu cao, đẩy quân Mỹ - ngụy lâm vào thế bị động, lúng túng, tinh thần chiến đấu giảm sút nhanh. Đặc biệt, những đợt hoạt động tập trung với quy mô lớn của Đoàn 8 Sông Lô kết hợp với các đơn vị bạn đánh bại nhiều cuộc hành quân tìm diệt của địch ở động Tam Bôi, Cô A Nông, Cô Pung, Re Lao, động Ngãi hay thung lũng A Sầu, A Lưới… đã củng cố thêm niềm tin, mở ra những phương thức mới cho đơn vị tác chiến sau này. Điều đó đã được thể hiện rất rõ qua những hoạt động đánh bại cuộc tiến quân “Tuyết rơi trên đỉnh núi” của liên quân Mỹ - ngụy ở đồi A Bia, điểm cao 935 đầu năm 1969 và khu vực Cốc Bai năm 1970… Tinh thần chiến đấu ngoan cường của các đơn vị, gương hy sinh anh dũng của Tiểu đoàn trưởng Trần Viết Phồn, Đại đội trưởng Nguyễn Văn Nam, Đại đội phó Nguyễn Văn Dưỡng, chiến sĩ Vũ Tất Phan… cùng hàng trăm, hàng trăm đồng đội khác sẽ sống mãi trong lòng mỗi cán bộ, chiến sĩ Đoàn 8 Sông Lô anh hùng.

Tuy kế hoạch đánh Huế đợt 2, đợt 3 không thực hiện được, nhưng việc thu hút, kìm chân lực lượng chủ lực quân Mỹ - ngụy trên chiến trường, cũng như hiệu quả tiêu hao, tiêu diệt nhiều lực lượng phương tiện, phá vỡ một phần thế chiến lược của địch, làm giảm sút ý chí chiến đấu của chúng trên địa bàn, góp phần hỗ trợ cho các hướng khác, nhất là trên mặt trận Đà Nẵng, Sài Gòn tiếp tục đẩy mạnh cuộc Tổng tiến công nổi dậy Mậu Thân 1968 qua các đợt theo đúng kế hoạch, đập tan ý chí tiếp tục chiến tranh của Mỹ, buộc chúng phải xuống thang tạm ngừng đánh phá miền Bắc.

Năm mươi năm với bao ký ức về cuộc Tổng tiến công chiến lược Tết Mậu Thân 1968 trên chiến trường miền Nam nói chung, ở Thừa Thiên - Huế nói riêng sẽ còn mãi trong mỗi chúng tôi - những người lính lần đầu ra trận được tham gia đánh Mỹ và vinh dự góp phần chiến thắng.

Đầu xuân Mậu Tuất 2018 này, chúng tôi có cuộc hành hương về thăm lại chiến trường xưa, cùng thắp nén nhang tri ân các đồng đội đã ngã xuống nơi đây sau nửa thế kỉ. Xin hãy yên lòng! Đất nước, quê hương, gia đình, đồng đội… luôn vang mãi lời ru bên giấc ngủ các anh!

N.T.L  
(TCSH347/01-2018)

--------------
1. Đúng ra chúng tôi được lệnh bổ sung vào chiến  trường B dài (Nam Bộ), nhưng do yêu cầu của chiến trường Trị Thiên Huế nên chúng tôi được “bẻ ghi” vào đây.
2. Anh Nghiêm Xuân Minh, bạn học cùng làng từ  lớp 1 đến lớp 10 và một số bạn đồng môn khác đã hy sinh ngay sáng hôm sau khi xe tăng, bộ binh địch tập trung lực lượng đánh lên chốt.
 



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • BỬU Ý

    Hàn Mặc Tử (Nguyễn Trọng Trí) từng sống mấy năm ở Huế khi còn rất trẻ: từ 1928 đến 1930. Đó là hai năm học cuối cùng cấp tiểu học ở nội trú tại trường Pellerin (còn gọi là trường Bình Linh, thành lập năm 1904, do các sư huynh dòng La San điều hành), trường ở rất gần nhà ga tàu lửa Huế. Thời gian này, cậu học trò 17, 18 tuổi chăm lo học hành, ở trong trường, sinh hoạt trong tầm kiểm soát nghiêm ngặt của các sư huynh.

  • LÊ QUANG KẾT
                   

    Giai điệu và lời hát đưa tôi về ngày tháng cũ - dấu chân một thuở “phượng hồng”: “Đường về Thành nội chiều sương mây bay/ Em đến quê anh đã bao ngày/ Đường về Thành nội chiều sương nắng mới ơ ơ ơ/ Hoa nở hương nồng bay khắp trời/ Em đi vô Thành nội nghe rộn lòng yêu thương/ Anh qua bao cánh rừng núi đồi về sông Hương/ Về quê mình lòng mừng vui không nói nên lời…” (Nguyễn Phước Quỳnh Đệ).

  • VŨ THU TRANG

    Đến nay, có thể nói trong các thi sĩ tiền chiến, tác giả “Lỡ bước sang ngang” là nhà thơ sải bước chân rong ruổi khắp chân trời góc bể nhất, mang tâm trạng u hoài đa cảm của kẻ lưu lạc.

  • TRẦN PHƯƠNG TRÀ

    Đầu năm 1942, cuốn “Thi nhân Việt Nam 1932-1941” của Hoài Thanh - Hoài Chân ra đời đánh dấu một sự kiện đặc biệt của phong trào Thơ mới. Đến nay, cuốn sách xuất bản đúng 70 năm. Cũng trong thời gian này, ngày 4.2-2012, tại Hà Nội, Xuân Tâm nhà thơ cuối cùng trong “Thi nhân Việt Nam” đã từ giã cõi đời ở tuổi 97.

  • HUYỀN TÔN NỮ HUỆ - TÂM
                                      Đoản văn

    Về Huế, tôi và cô bạn ngày xưa sau ba tám năm gặp lại, rủ nhau ăn những món đặc sản Huế. Lần này, y như những bợm nhậu, hai đứa quyết không no nê thì không về!

  • LƯƠNG AN - NGUYỄN TRỌNG HUẤN - LÊ ĐÌNH THỤY - HUỲNH HỮU TUỆ

  • BÙI KIM CHI

    Nghe tin Đồng Khánh tổ chức kỷ niệm 95 năm ngày thành lập trường, tôi bồi hồi xúc động đến rơi nước mắt... Con đường Lê Lợi - con đường áo lụa, con đường tình của tuổi học trò đang vờn quanh tôi.

  • KIM THOA

    Sao anh không về chơi Thôn Vỹ
    Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên        
          
                       (Hàn Mạc Tử)

  • NGUYỄN VĂN UÔNG

    Hôm nay có một người du khách
    Ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên         
     

    (Xóm Ngự Viên - Nguyễn Bính)

  • HOÀNG THỊ NHƯ HUY

    Tôi biết Vân Cù từ tấm bé qua bóng hình người đàn bà gầy đen, gánh đôi quang gánh trĩu nặng trên vai, rảo khắp các xóm nhỏ ở Thành Nội, với giọng rao kéo dài: “Bún…bún…ún!” mà mẹ đã bao lần gọi mua những con bún trắng dẻo mềm.

  • LÊ QUANG KẾT                
                      Tùy bút

    Hình như văn chương viết về quê hương bao giờ cũng nặng lòng và giàu cảm xúc - dù rằng người viết chưa hẳn là tác giả ưu tú.

  • TỪ SƠN… Huế đã nuôi trọn thời ấu thơ và một phần tuổi niên thiếu của tôi. Từ nơi đây , cách mạng đã đưa tôi đi khắp mọi miền của đất nước. Hà Nội, chiến khu Việt Bắc, dọc Trường Sơn rồi chiến trường Nam Bộ. Năm tháng qua đi.. Huế bao giờ cũng là bình minh, là kỷ niệm trong sáng của đời tôi.

  • LÊ QUANG KẾT

    Quê tôi có con sông nhỏ hiền hòa nằm phía bắc thành phố - sông Bồ. Người sông Bồ lâu nay tự nhủ lòng điều giản dị: Bồ giang chỉ là phụ lưu của Hương giang - dòng sông lớn của tao nhân mặc khách và thi ca nhạc họa; hình như thế làm sông Bồ dường như càng bé và dung dị hơn bên cạnh dòng Hương huyền thoại ngạt ngào trong tâm tưởng của bao người.

  • HUY PHƯƠNG

    Nỗi niềm chi rứa Huế ơi
    Mà mưa trắng đất, trắng trời Thừa Thiên         
                          
                                              (Tố Hữu)

  • PHAN THUẬN AN

    Huế là thành phố của những dòng sông. Trong phạm vi của thành phố thơ mộng này, đi đến bất cứ đâu, đứng ở bất kỳ chỗ nào, người ta cũng thấy sông, thấy nước. Nước là huyết mạch của cuộc sống con người. Sông là cội nguồn của sự phát triển văn hoá. Với sông với nước của mình, Huế đã phát triển theo nguyên tắc địa lý thông thường như bao thành phố xưa nay trên thế giới.

  • MAI KIM NGỌC

    Tôi về thăm Huế sau hơn ba thập niên xa cách.Thật vậy, tôi xa Huế không những từ 75, mà từ còn trước nữa. Tốt nghiệp trung học, tôi vào Sài Gòn học tiếp đại học và không trở về, cho đến năm nay.

  • HOÀNG HUẾ

    …Trong lòng chúng tôi, Huế muôn đời vẫn vĩnh viễn đẹp, vĩnh viễn thơ. Hơn nữa, Huế còn là mảnh đất của tổ tiên, mảnh đất của trái tim chúng tôi…

  • QUẾ HƯƠNG

    Năm tháng trước, về thăm Huế sau cơn đại hồng thủy, Huế ngập trong bùn và mùi xú uế. Lũ đã rút. Còn lại... dòng-sông-nước-mắt! Người ta tổng kết những thiệt hại hữu hình ước tính phải mươi năm sau bộ mặt kinh tế Thừa Thiên - Huế mới trở lại như ngày trước lũ. Còn nỗi đau vô hình... mãi mãi trĩu nặng trái tim Huế đa cảm.

  • THU TRANG

    Độ hai ba năm thôi, tôi không ghé về Huế, đầu năm 1999 này mới có dịp trở lại, thật tôi đã có cảm tưởng là có khá nhiều đổi mới.

  • TUỆ GIẢI NGUYỄN MẠNH QUÝ

    Có lẽ bởi một nỗi nhớ về Huế, nhớ về cội nguồn - nơi mình đã được sinh ra và được nuôi dưỡng trong những tháng năm dài khốn khó của đất nước, lại được nuôi dưỡng trong điều kiện thiên nhiên vô cùng khắc nghiệt. Khi đã mưa thì mưa cho đến thúi trời thúi đất: “Nỗi niềm chi rứa Huế ơi/ Mà mưa xối xả trắng trời Trị Thiên…” (Tố Hữu). Và khi đã nắng thì nắng cho nẻ đầu, nẻ óc, nắng cho đến khi gió Lào nổi lên thổi cháy khô trời thì mới thôi.