NGUYỄN TỰ LẬP
Cuộc Tổng công kích - Tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân 1968 của quân và dân ta trên chiến trường miền Nam cách đây tròn nửa thế kỷ (1968 - 2018).
Đồng chí Nguyễn Tự Lập (hàng đầu thứ 2 từ phải sang) cùng đồng đội xuân 1968 bên hố pháo của địch
Chiến công oanh liệt mang ý nghĩa chiến lược ấy thực sự là mốc son chói ngời, tạo nên bước ngoặt lớn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước lâu dài, gian khổ nhưng thắng lợi hết sức vẻ vang của dân tộc Việt Nam. Tuy chỉ được tham gia vào giai đoạn mà cuộc Tổng tiến công nổi dậy đã nổ ra, nhưng những ngày tháng cùng đơn vị chiến đấu, đánh trả lực lượng phản kích của địch trên chiến trường phía tây Cố đô Huế đầy gian nan thử thách, đã để lại trong tôi cũng như đồng đội bao ký ức sâu lắng, khó phai mờ.
Nhập ngũ cuối tháng 7 năm 1967, vào đúng thời điểm Đảng và Nhà nước tiến hành tổng động viên lực lượng cho chiến trường. Bởi vậy, chúng tôi lên đường phần lớn là những học sinh tuổi mười tám, đôi mươi “tràn đầy khát vọng, phơi phới niềm tin”, nhiều người đã và đang có giấy gọi đại học trong nước và nước ngoài. Cùng đi Nam chiến đấu với chúng tôi còn có các bậc cha chú ngót nghét tuổi 40, đã có 4 đến 5 con, cá biệt có những người là con trai độc nhất trong gia đình. Sau gần 3 tháng học tập chính trị, huấn luyện quân sự ở Gia Lương, Lục Nam (Hà Bắc trước đây) với tinh thần hết sức khẩn trương, đơn vị chúng tôi (d405/ e568/f330) được lệnh hành quân gấp vào Nam bổ sung cho các đơn vị, chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công nổi dậy Tết Mậu Thân 1968. Nhưng do phải hành quân bộ, mang vác nặng từ Hà Bắc vào Quảng Bình, sang đất bạn Lào, lại phải trải qua những thời điểm địch đánh phá ác liệt khắp các chặng đường, gây thương vong… nên khi chúng tôi vào đến chiến trường1 thì các đơn vị chiếm giữ thành phố Huế sau 25 ngày đêm đã và đang được lệnh rút lui về khu vực rừng núi ở phía tây, vì vấp phải sự tập trung lực lượng phản kích lớn, hết sức điên cuồng, quyết liệt của địch.
Tiểu đoàn chúng tôi được bổ sung về Đoàn 8 Sông Lô (sau này là Trung đoàn 3, Sư đoàn 324) ngay trong đêm khi vừa hành quân đến. Do các hướng đang liên tục phải chống trả với lực lượng tiến công của địch nên vừa về đơn vị, ai nấy đều nhanh chóng bắt tay ngay vào việc xây dựng, củng cố công sự trận địa, chuẩn bị mọi mặt, sẵn sàng đánh địch ngay từ mờ sáng hôm sau. Từ thực tế đó, nhiều cán bộ đại đội, trung đội và ngay cả tiểu đội chưa biết mặt, biết tên chiến sĩ mới của mình thì họ đã hy sinh2, bị thương… phải chuyển về tuyến sau.
![]() |
Quân ta tiến đánh chiếm Thành Nội - Huế Xuân Mậu Thân 1968 - (Ảnh tư liệu) |
Nhằm đẩy đối phương ra xa khu vực thành phố Huế cũng như phá thế chuẩn bị của ta cho những đợt tiến công tiếp theo địch đưa Sư đoàn kỵ binh bay số 1 Mỹ “tia chớp nhiệt đới” với 500 máy bay trực thăng các loại, sau này tăng cường thêm sư đoàn dù 101 kết hợp với nhiều tiểu đoàn, trung đoàn, lữ đoàn chủ lực bộ binh, thủy quân lục chiến ngụy quân Sài Gòn tập trung phản kích rộng khắp. Máy bay trực thăng như những bầy chuồn chuồn quần lượn rà sát ngọn cây nhằm quan sát, phát hiện, kết hợp với đổ quân, đánh chặn lực lượng ta khắp nơi suốt từ các khu vực Hòn Gió, Bình Điền, Tà Lương, Ba Lẻ, Động Tranh, đến các điểm cao 286, 360, 935… Ngoài sử dụng máy bay B-52 “rải thảm”, máy bay B-57 ném bom “tọa độ” kết hợp với “pháo hạm” từ biển, pháo cối lớn nhỏ gần xa cứ suốt ngày đêm gầm rú, thét gào. Chúng còn sử dụng cả chất độc hóa học các loại, trong đó có cả chất diệt cỏ dioxin (da cam) nhằm làm rụng lá, quang rừng, phát hiện, tiêu hao tiêu diệt, đẩy lực lượng ta phải lùi xa về hướng biên giới Việt - Lào.
Đây là giai đoạn khó khăn nhất của đơn vị, có những lúc bộ đội đói cơm, lạt muối, thuốc cứu chữa thương bệnh binh thiếu do địch tăng cường ngăn chặn đánh phá các tuyến vận tải hậu cần của ta. Song, phát huy truyền thống kiên cường giữ vững Thành Huế trong 26 ngày đêm, Đoàn 8 Sông Lô chúng tôi đã đoàn kết đồng lòng, tìm mọi biện pháp khắc phục, vượt qua. Một mặt hiệp đồng chặt chẽ với các đơn vị bạn đứng chân trên địa bàn như Đoàn 9, Đoàn 6; mặt khác cùng LLVTvà nhân dân Thừa Thiên - Huế và Quân khu Trị Thiên khai thác hậu cần tại chỗ, bám trụ ngày đêm, vận dụng nhiều loại hình, phương thức tác chiến linh hoạt, cơ động, tiêu hao tiêu diệt lớn lực lượng, phá hủy nhiều phương tiện, bắn rơi nhiều máy bay các loại của địch, gây cho chúng những tổn thất nặng nề trên toàn mặt trận. Những trận chiến đấu kiên cường giữ chốt, vận động tiến công kết hợp chốt ở khu vực Mái Nhà, Động Tranh, điểm cao 372… cùng với những cuộc bao vây, tập kích, phục kích lực lượng biệt kích thám báo, đánh xe tăng, xe bọc thép, xe cơ giới của Mỹ trên Đường 12, đường 14… ngày càng đem lại hiệu suất chiến đấu cao, đẩy quân Mỹ - ngụy lâm vào thế bị động, lúng túng, tinh thần chiến đấu giảm sút nhanh. Đặc biệt, những đợt hoạt động tập trung với quy mô lớn của Đoàn 8 Sông Lô kết hợp với các đơn vị bạn đánh bại nhiều cuộc hành quân tìm diệt của địch ở động Tam Bôi, Cô A Nông, Cô Pung, Re Lao, động Ngãi hay thung lũng A Sầu, A Lưới… đã củng cố thêm niềm tin, mở ra những phương thức mới cho đơn vị tác chiến sau này. Điều đó đã được thể hiện rất rõ qua những hoạt động đánh bại cuộc tiến quân “Tuyết rơi trên đỉnh núi” của liên quân Mỹ - ngụy ở đồi A Bia, điểm cao 935 đầu năm 1969 và khu vực Cốc Bai năm 1970… Tinh thần chiến đấu ngoan cường của các đơn vị, gương hy sinh anh dũng của Tiểu đoàn trưởng Trần Viết Phồn, Đại đội trưởng Nguyễn Văn Nam, Đại đội phó Nguyễn Văn Dưỡng, chiến sĩ Vũ Tất Phan… cùng hàng trăm, hàng trăm đồng đội khác sẽ sống mãi trong lòng mỗi cán bộ, chiến sĩ Đoàn 8 Sông Lô anh hùng.
Tuy kế hoạch đánh Huế đợt 2, đợt 3 không thực hiện được, nhưng việc thu hút, kìm chân lực lượng chủ lực quân Mỹ - ngụy trên chiến trường, cũng như hiệu quả tiêu hao, tiêu diệt nhiều lực lượng phương tiện, phá vỡ một phần thế chiến lược của địch, làm giảm sút ý chí chiến đấu của chúng trên địa bàn, góp phần hỗ trợ cho các hướng khác, nhất là trên mặt trận Đà Nẵng, Sài Gòn tiếp tục đẩy mạnh cuộc Tổng tiến công nổi dậy Mậu Thân 1968 qua các đợt theo đúng kế hoạch, đập tan ý chí tiếp tục chiến tranh của Mỹ, buộc chúng phải xuống thang tạm ngừng đánh phá miền Bắc.
Năm mươi năm với bao ký ức về cuộc Tổng tiến công chiến lược Tết Mậu Thân 1968 trên chiến trường miền Nam nói chung, ở Thừa Thiên - Huế nói riêng sẽ còn mãi trong mỗi chúng tôi - những người lính lần đầu ra trận được tham gia đánh Mỹ và vinh dự góp phần chiến thắng.
Đầu xuân Mậu Tuất 2018 này, chúng tôi có cuộc hành hương về thăm lại chiến trường xưa, cùng thắp nén nhang tri ân các đồng đội đã ngã xuống nơi đây sau nửa thế kỉ. Xin hãy yên lòng! Đất nước, quê hương, gia đình, đồng đội… luôn vang mãi lời ru bên giấc ngủ các anh!
N.T.L
(TCSH347/01-2018)
--------------
1. Đúng ra chúng tôi được lệnh bổ sung vào chiến trường B dài (Nam Bộ), nhưng do yêu cầu của chiến trường Trị Thiên Huế nên chúng tôi được “bẻ ghi” vào đây.
2. Anh Nghiêm Xuân Minh, bạn học cùng làng từ lớp 1 đến lớp 10 và một số bạn đồng môn khác đã hy sinh ngay sáng hôm sau khi xe tăng, bộ binh địch tập trung lực lượng đánh lên chốt.
HỒ DZẾNH
Hồi ký
Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này
NGUYỄN DU
LÝ HOÀI THU
Tôi nhớ… một chiều cuối hạ năm 1972, trên con đường làng lát gạch tại nơi sơ tán Ứng Hòa - Hà Tây cũ, lần đầu tiên tôi nhìn thấy thầy. Lúc đó lớp Văn K16 của chúng tôi đang bước vào những tuần cuối của học kỳ II năm thứ nhất.
PHẠM THỊ CÚC
(Tặng bạn bè Cầu Ngói Thanh Toàn nhân Ngày Thương binh Liệt sĩ)
Người ta vẫn nói Tô Hoài là “nhà văn của thiếu nhi”. Hình như chưa ai gọi ông là “nhà văn của tuổi già”. Cho dù giai đoạn cuối trong sự nghiệp của ông – cũng là giai đoạn khiến Tô Hoài trở thành “sự kiện” của đời sống văn học đương đại chứ không chỉ là sự nối dài những gì đã định hình tên tuổi ông từ quá khứ - sáng tác của ông thường xoay quanh một hình tượng người kể chuyện từng trải qua nhiều thời kỳ lịch sử, nhiều thăng trầm của đời sống, giờ đây ngồi nhớ lại, ngẫm lại, viết lại quá khứ, không phải nhằm dạy dỗ, khuyên nhủ gì ai, mà chỉ vì muốn lưu giữ và thú nhận.
CAO THỊ QUẾ HƯƠNG
Tôi được gặp và quen nhạc sĩ Trịnh Công Sơn vào những ngày đầu mùa hè năm 1966 khi anh cùng anh Trần Viết Ngạc đến trụ sở Tổng hội Sinh viên, số 4 Duy Tân, Sài Gòn trình diễn các bài hát trong tập “Ca khúc da vàng”.
THÁI KIM LAN
Lớp đệ nhất C2 của chúng tôi ở trường Quốc Học thập niên 60, niên khóa 59/60 gồm những nữ sinh (không kể đám nam sinh học trường Quốc Học và những trường khác đến) từ trường Đồng Khánh lên, những đứa đã qua phần tú tài 1.
Nhung nhăng, tần suất ấy dường như khá dày, là ngôn từ của nhà văn Tô Hoài để vận vào những trường hợp, lắm khi chả phải đi đứng thế này thế nọ mà đương bập vào việc chi đó?
Tôi được quen biết GS. Nguyễn Khắc Phi khá muộn. Đó là vào khoảng đầu những năm 80 của thế kỉ trước, khi anh được chuyển công tác từ trường ĐHSP Vinh ra khoa Văn ĐHSPHN.
Năm 1960, tôi học lớp cuối cấp 3. Một hôm, ở khu tập thể trường cấp 2 tranh nứa của tôi ở tỉnh, vợ một thầy giáo dạy Văn, cùng nhà, mang về cho chồng một cuốn sách mới. Chị là người bán sách.
DƯƠNG PHƯỚC THU
LTS: Trên số báo 5965 ra ngày 07/02/2014, báo Thừa Thiên Huế có bài “Vài điều trong các bài viết về Cố Đại tướng Nguyễn Chí Thanh”, của tác giả Phạm Xuân Phụng, trong đó có nhắc nhiều đến các bài viết về Đại tướng đã đăng trên Sông Hương số đặc biệt tháng 12/2013 (số ĐB thứ 11), và cho rằng có nhiều sai sót trong các bài viết đó.
NGUYỄN THỊ PHƯỚC LIÊN
(Thương nhớ Cẩm Nhung của Hương, Lại, Nguyệt, Liên)
BÙI KIM CHI
Trời cuối thu. Rất đẹp. Lá phượng vàng bay đầy đường. Tôi đang trong tâm trạng náo nức của một thoáng hương xưa với con đường Bộ Học (nay là Hàn Thuyên) của một thời mà thời gian này thuở ấy tôi đã cắp sách đến trường. Thời con gái của tôi thênh thang trở về với “cặp sách, nón lá, tóc xõa ngang vai, đạp xe đạp…”. Mắt rưng rưng… để rồi…
LÊ MINH
Nguyên Tư lệnh chiến dịch Bí thư Thành ủy Huế (*)
… Chỉ còn hai ngày nữa là chiến dịch mở; tôi xin bàn giao lại cho Quân khu chức vụ "chính ủy Ban chuẩn bị chiến trường" để quay về lo việc của Thành ủy mà lúc đó tôi vẫn là Bí thư.
NGUYỄN KHOA BỘI LAN
Cách đây mấy chục năm ở thôn Gia Lạc (hiện nay là thôn Tây Thượng) xã Phú Thượng có hai nhà thơ khá quen thuộc của bà con yêu thơ xứ Huế. Đó là bác Thúc Giạ (Ưng Bình) chủ soái của Hương Bình thi xã và cha tôi, Thảo Am (Nguyễn Khoa Vi) phó soái.
(SHO). Nhân dân Việt Nam khắc sâu và nhớ mãi cuộc chiến đấu can trường bảo vệ biên giới tổ quốc thân yêu tháng 2/1979. Điều đó đã thêm vào trang sử hào hùng về tinh thần bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của dân tộc.
NGUYỄN CƯƠNG
Có nhiều yếu tố để Cố đô Huế là một trung tâm văn hóa du lịch, trong đó có những con đường rợp bóng cây xanh làm cho Huế thơ mộng hơn, như đường Lê Lợi chạy dọc bên bờ sông Hương, đường 23/8 đi qua trước Đại Nội, rồi những con đường với những hàng cây phượng vỹ, xà cừ, bằng lăng, me xanh... điểm tô cho Huế.
HOÀNG HƯƠNG TRANG
Cách nay hơn một thế kỷ, người Huế, kể cả lớp lao động, nông dân, buôn bán cho đến các cậu mợ, các thầy các cô, các ông già bà lão, kể cả giới quý tộc, đều ghiền một lại thuốc lá gọi là thuốc Cẩm Lệ.
PHẠM HỮU THU
Với tư cách là Bí thư Tỉnh ủy lâm thời và Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) của tỉnh Thừa Thiên - Huế, đầu năm 1942, sau khi vượt ngục trở về, đồng chí Nguyễn Chí Thanh đã có quãng thời gian gắn bó với vùng đầm Cầu Hai, nơi có cồn Rau Câu, được Tỉnh ủy lâm thời chọn làm địa điểm huấn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Để đảm bảo bí mật và an toàn, Tỉnh ủy đã chọn một số cơ sở là cư dân thủy diện đảm trách việc bảo vệ và đưa đón cán bộ.
Số cơ sở này chủ yếu là dân vạn đò của làng chài Nghi Xuân.
TRẦN NGUYÊN
Thăm Khu lưu niệm Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, như được trở về mái nhà thân thương nơi làng quê yêu dấu. Những ngôi nhà bình dị nối nhau với liếp cửa mở rộng đón ánh nắng rọi vào góc sâu nhất.
PHẠM HỮU THU
Nhân kỷ niệm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22 - 12
“Có những sự thật quá lớn lao của một thời, đến nỗi hậu thế nhìn qua lớp sương mù của thời gian, không thể nào tin nổi” (Nhà văn Phùng Quán).